Bản án về tội dâm ô với người dưới 16 tuổi số 268/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 268/2023/HS-ST NGÀY 26/09/2023 VỀ TỘI DÂM Ô VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 26 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố T, tỉnh D, xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số 269/2023/TLST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 268/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

NVL, sinh năm 1984 tại A; thường trú: Ấp BĐ, xã BP, huyện CP, tỉnh AG; tạm trú: 126/7 khu phố BP, phường BC, thành phố TA, tỉnh B; Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông NVT (đã chết) và bà NTN, sinh năm 1960; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/3/2023 đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: PNH, sinh ngày 23/6/2008; thường trú: 188/4 K2, P7, thành phố BL, tỉnh B, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp: Bà PTS, sinh năm 1975; thường trú: 188/4 K2, P7, thành phố BL, tỉnh B,; tạm trú: 126/7 khu phố BP, phường BC, thành phố TA, tỉnh B, có mặt.

- Người làm chứng:

+ Ông HL, có mặt + Bà NTTL, vắng mặt + VTNT, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

NVL sống chung như vợ chồng với bà PTS. Bà A có một người con riêng là PNH, sinh ngày 05/3/2023 sinh sống cùng phòng trọ số 1 tại cơ sở trọ 126/17 khu phố BP, phường BC, thành phố TA, tỉnh B. Khoảng 07 giờ 30 ngày 05/3/2023, sau khi chở bà S đi làm Láng quay về, dắt xe vào phòng trọ rồi nằm võng thì L nảy sinh ham muốn quan hệ tình dục và muốn được H kích thích bộ phận sinh dục (dương vật) cho L. Thực hiện ý định, L đi vào nhà vệ sinh lấy 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng sáng để trên kệ gương bỏ vào túi quần đùi và áo thun của L đang mặc rồi đi ra chốt cửa phòng, đóng hờ cửa sổ lại. L đi lên gác cởi quần đùi và áo thun của L đang mặc ra rồi lại gần chỗ H đang ngồi bấm điện thoại ở góc nệm ngủ rồi yêu cầu H dùng tay kích thích dương vật. H không đồng ý, đứng dậy bỏ đi và la lên thì L dùng kéo đe dọa sẽ giết H nếu H không nghe lời của L. Do lo sợ nên H dùng tay kích thích dương vật của L bằng cách nắm tay của H đưa lên đưa xuống được 02 phút thì L xuất tinh ra tấm trải nệm. Sau khi xuất tinh L dùng tay trái ôm vai của H và dùng miệng hôn lên má của H thì bị H dùng miệng cắn vào môi dưới của L và cắn vào vai phải của L rồi H bỏ chạy xuống mở cửa phòng hạy ra ngoài kêu cứu và chạy vào phòng của bà NTTL đang sinh sống tại phòng số 11 cùng cơ sở trọ để nhờ hỗ trợ. Sau khi Hbỏ chạy ra ngoài thì L khóa cửa phòng trọ rồi bỏ đi đâu không rõ. Đến ngày 26/3/2023 ông HL là anh cùng mẹ khác cha của H biết sự việc nên đến công an phường Bình Chuẩn trình báo sự việc.

Vật chứng thu giữ: 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng dài 15cm và 01 tấm nệm.

Quá trình điều tra xác định: Ngoài hành vi phạm tội nêu trên vào khoảng tháng 10/2021 tại phòng trọ địa chỉ 505/16 đường Bình Chuẩn 69 khu phố Bình Phước A, phường Bình Chuẩn, thành phố T, tỉnh D, NVL cũng có hành vi đe dọa để ép buộc PNH dùng tay tiếp xúc, cọ sát vào dương vật của Láng cho đến khi xuất tinh. Đồng thời, L đe dọa Hân không được kể lại sự việc cho mẹ Hân là bà PTS.

Giấy chứng nhận thương tích số 20 ngày 06/3/2023 cuả Trung tâm ý tế thành phố T kết luận đối với bị hại PNH: Khám âm đạo: môi lớn, môi bé bình thường; màng trinh không giãn, không ghi nhận vết rách, siêu âm phụ khoa chưa ghi nhận bất thường; soi dịch âm đạo không tìm thấy tinh trùng.

Tại bản kết luận giám định số 3337/KL-KTHS ngày 23/6/2023 của Phân viện khoa học hình sự Bộ công an tại Thành phô Hồ Chí Minh kết luận: Trên tấm nệm gửi có tinh trùng người, phân tích gen (ADN) từ mẫu tinh trùng này được kiểu gen trùng với kiểu dáng của NVL Cáo trạng số 272/CT-VKS-TA ngày 08/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố bị cáo NVL về tội “Dâm ô với người dưới 16 tuổi” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 146 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T trình bày lời luận tội trong đó có nội dung giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị áp dụng điểm b khoản 2 Điều 146; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Láng mức hình phạt từ 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù đến 04 (bốn) năm tù.

- Về xử lý vật chứng:

Đối với tấm nệm và 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng dài 15cm là vật chứng của vụ án, không có giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

-Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không xem xét.

- Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ý kiến người đại diện hợp pháp của bị hại tại phiên tòa: Đề nghị xử lý theo quy định và không có yêu cầu bồi thường.

- Lời khai của người làm chứng tại phiên tòa: Vẫn giữ nguyên lời trình bày tại cơ quan điều tra.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị cáo NLV khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố bị cáo trước Tòa. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng tháng 10/2021 tại địa chỉ 505/16 đường Bình Chuẩn 69, khu phố Bình Phước A, phường Bình Chuẩn, thành phố T, tỉnh D và ngày 05/3/2023 tại phòng trọ số 01 cơ sở trọ 126/17 khu phố Bình Phú, phường Bình Chuẩn, thành phố T, tỉnh D, NLV có hành vi dâm ô với PNH, sinh ngày 23/6/2008. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Dâm ô với người dưới 16 tuổi”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 146 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại sự an toàn về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người bị hại, tạo dư luận xấu trong xã hội, thuộc trường hợp nghiêm trọng. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý phạm tội. Do vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội để cải tạo, giáo dục bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4]. Về nhân thân, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có - Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Mức đề nghị hình phạt của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đối với bị cáo NVL là phù hợp nên chấp nhận.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với tấm trải nệm và 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng dài 15cm là vật chứng của vụ án, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7]. Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm b Khoản 2 Điều 146; Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Điều 106 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo NVL phạm tội “Dâm ô với người dưới 16 tuổi”.

Xử phạt bị cáo NVL 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/3/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 tấm trải nệm và 01 cây kéo bằng kim loại màu trằng dài 15cm (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/9/2023 và ngày 25/9/2023).

3. Về án phí sơ thẩm: Bị cáo NVL phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội dâm ô với người dưới 16 tuổi số 268/2023/HS-ST

Số hiệu:268/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về