TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN HÒA, TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 01/2023/HS-ST NGÀY 10/01/2023 VỀ TỘI DÂM Ô NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 10 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ L số: 37/2021/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 32/2022/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 12 năm 2022, đối với bị cáo:
Đỗ Hoàng N, sinh năm 1983 tại tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Thôn D, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Lái xe; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Đỗ Hiển V, sinh năm 1950 và bà Phùng Thị C, sinh năm 1955; vợ: bà Phan Thị Hồng O, sinh năm 1991, con: 2 cháu, lớn 2011, nhỏ 2018; Tiền án, Tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại có mặt.
- Bị hại: Nguyễn Lê Thanh E, sinh ngày 18/02/2009; nơi cư trú: thôn H, xã S, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên.
Người đại diện hợp pháp của bị hại: Lê Thị L, sinh năm 1985 (mẹ ruột của bị hại), nơi cư trú: thôn H, xã S, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên.
Có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Ông Ngô Văn Thành, Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Phú Yên. Có mặt.
- Người làm chứng:
+ Ngô Thị X, sinh năm 1970; nơi cư trú: thôn H, xã S, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
+ Đặng Ngọc M, sinh ngày 17/8/2007; nơi cư trú: thôn H, xã S, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của người làm chứng M: Ngô Thị X, sinh năm 1970 (mẹ ruột của X); nơi cư trú: thôn H, xã S, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 25/6/2022 N điều khiển xe ô tô tải 49C- xxxxx chở hàng đi từ tỉnh Bình Định đến thành phố G, tỉnh Đăk Nông. N dừng xe, vào quán của bà Ngô Thị X ở thôn H, xã S để uống nước, thì gặp và nói chuyện với em Nguyễn Lê Thanh E sinh ngày 18/02/2009, nhưng chỉ thấy em E cười. N ra xe kiểm tra lốp xe, E đi theo sau N hỏi E có đi chơi không chở đi thì em E cười, gật đầu. N mở cửa lên xe thì E cũng leo lên xe ngồi bên ghế phụ, N điều khiển xe chạy đến đoạn đường đất thuộc thôn M Thành, xã Sơn Hội. N dừng xe và xuống xe, em E cũng xuống theo. Lúc này khoảng 18 giờ 10 phút cùng ngày, N nghĩ E thích mình nên nắm tay của E, thấy E không phản ứng gì nên N ôm hôn mặt, hôn vào cổ em E rồi dùng tay sờ ngực và sờ bộ phận sinh dục (sờ bên ngoài áo quần) của em E một lúc. Sau đó N quay đi chỗ khác tự cởi quần của N cho dương vật xuất tinh trùng. Xuất tinh trùng xong N dùng khăn lau dương vật rồi mặc quần lại, tiếp tục nói chuyện với E nhưng thấy E vẫn không nói gì mà chỉ nhìn và cười, thấy vậy, N nghi ngờ E bị bệnh gì đó nên sợ. N điều khiển xe chở E về lại gần cây xăng Bình Phương (gần ngã tư xã S) để E xuống xe tự đi về, còn N tiếp tục điều khiển xe ô tô tải đi Đăk Nông để giao hàng. Sự việc xảy ra bà Lê Thị Ly (mẹ E) báo cáo Công an xã S.
Kết luận giám định pháp y số 201/TDTE ngày 01/7/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Phú Yên kết luận: Chưa thấy tổn thương bộ phận sinh dục. Không thấy rách màng trinh. Không thấy xác tinh trùng trên tiêu bản nhuộm Giêmsa. Kết quả xét nghiệm HIV: Âm tính. Khám toàn bộ thân thể không phát hiện tổn thương.
Vật chứng: Tạm giữ chờ xử lý: 01 (một) xe ô tô tải biển kiểm soát số 49C- xxxxx, màu sơn: trắng, nhãn hiệu: JINBEI, số loại SY1022DEF, số máy: QC480QDIQ60624951D, số khung: LSYC3GM907H080238, tình trạng xe đã qua sử dụng; 01 (một) khăn vải màu trắng bị vò nhàu, kích thước (20x20)cm.
Về dân sự: Bị cáo Đỗ Hoàng N đã bồi thường 50.000.000 đồng, người đại diện bị hại Lê Thị L đã nhận và không yêu cầu tiếp tục bồi thường.
Cáo trạng số 29/CT-VKS-SH ngày 15/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Hoà đã truy tố bị cáo Đỗ Hoàng N về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” quy định tại khoản 1 Điều 146 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà: Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của VKSND huyện Sơn Hoà đã truy tố và khẳng định không bị oan. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả do bị cáo gây ra, tình tiết định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 146, điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51, điểm k khoản 1 Điều 52, Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã A, thị xã B, tỉnh Bình Định để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
- Dân sự: Không ai yêu cầu gì thêm nên không xét.
- Hình phạt bổ sung: Không.
- Vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Trả cho bị cáo Đỗ Hoàng N 01 (một) xe ô tô tải biển kiểm soát số 49C-xxxxx; màu sơn: trắng, nhãn hiệu: JINBEI, số loại SY1022DEF, số máy: QC480QDIQ60624951D, số khung: LSYC3GM907H080238, tình trạng xe đã qua sử dụng; Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) khăn vải màu trắng bị vò nhàu, kích thước (20x20)cm.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Hoàn toàn thống nhất theo phần luận tội của Đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo.
Bị cáo nói lời sau cùng: Thừa nhận hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử trong vụ án không ai khiếu nại gì. Tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.
[2] Đối với việc vắng mặt của người làm chứng: Ngô Thị X, Đặng Ngọc M đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có L do, xét thấy X, M đã có lời khai tại hồ sơ nên việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án hôm nay, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, quyết định tiếp tục xét xử.
[3] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm đều phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, của bị cáo, của người tham gia tố tụng đã đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 25/6/2022 N điều khiển xe ô tô tải 49C- xxxxx chở hàng đi từ tỉnh Bình Định đến thành phố G, tỉnh Đăk Nông. N dừng xe, vào quán của bà Ngô Thị X ở thôn H, xã S để uống nước, thì gặp và nói chuyện với em Nguyễn Lê Thanh E sinh ngày 18/02/2009, nhưng chỉ thấy em E cười. N ra xe kiểm tra lốp xe, E đi theo sau N hỏi E có đi chơi không chở đi thì em E cười, gật đầu. N mở cửa lên xe thì E cũng leo lên xe ngồi bên ghế phụ, N điều khiển xe chạy đến đoạn đường đất thuộc thôn M Thành, xã Sơn Hội. N dừng xe và xuống xe, em E cũng xuống theo. Lúc này khoảng 18 giờ 10 phút cùng ngày, N nghĩ E thích mình nên nắm tay của E, thấy E không phản ứng gì nên N ôm hôn mặt, hôn vào cổ em E rồi dùng tay sờ ngực và sờ bộ phận sinh dục (sờ bên ngoài áo quần) của em E một lúc. Sau đó N quay đi chỗ khác (cách khoảng 4-5m) tự cởi quần của N cho dương vật xuất tinh trùng. Khi thực hiện hành vi, bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo luật định, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Hòa truy tố bị cáo về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo quy định tại khoản 1 Điều 146 Bộ luật hình sự, là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm đến sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của người khác một cách trái pháp lýuật đều bị xử L nghiêm minh. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến tinh thần, danh dự, nhân phẩm của trẻ em từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi nên cần xử L nghiêm khắc đối với bị cáo có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.
Bị hại Nguyễn Lê Thanh E có giấy xác nhận khuyết tật trí tuệ nên cần áp dụng điểm k khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên bị cáo có nhân thân tốt chưa có Tiền án, Tiền sự. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn, có thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Sau khi sự việc xảy ra bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho bị hại 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng). Phía bị hại cũng như người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại đều trình bày bị cáo phạm tội dưới xe (dưới đất), bị cáo N hôn mặt, cổ của em E và dùng tay sờ ngực, sờ bộ phận sinh dục, tất cả đều sờ bên ngoài áo quần của em E nên người đại diện hợp pháp của bị hại tự nguyện có đơn bãi nại và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
Xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nhưng bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú ổn định rõ ràng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà có thể áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận 50.000.000 đồng bị cáo bồi thường, bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét.
[6] Về vật chứng:
Bị cáo không thực hiện hành vi phạm tội dâm ô trên xe ô tô tải biển kiểm soát số 49C-xxxxx đồng thời phần bồi thường dân sự phía bị hại đã nhận đủ 50.000.000 đồng bị cáo bồi thường, bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm, bãi nại và X giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên Hội đồng xét xử trả ngay chiếc xe ô tô này cho bị cáo vì xét thấy chiếc xe ô tô không ảnh hưởng đến việc xử L vụ án và thi hành án theo điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Do đó: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
- Trả cho bị cáo Đỗ Hoàng N 01 (một) xe ô tô tải biển kiểm soát số 49C- xxxxx; màu sơn: trắng, nhãn hiệu: JINBEI, số loại SY1022DEF, số máy: QC480QDIQ60624951D, số khung: LSYC3GM907H080238, tình trạng xe đã qua sử dụng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/11/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Hòa với Chi cục thi hành án dân sự huyện Sơn Hòa ngay trong ngày 10/01/2023. Yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên thực hiện ngay Quyết định này theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và chuyển lại thủ tục giao trả vật chứng cho Tòa án 01 bộ để lưu hồ sơ.
- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) khăn vải màu trắng bị vò nhàu, kích thước (20x20)cm (theo biên bản giao nhận vật chứng nói trên).
[7] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[8] Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí và lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo phải chịu Tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Hoàng N phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”.
1. Áp dụng khoản 1 Điều 146, điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51, điểm k khoản 1 Điều 52, Điều 65 của Bộ luật hình sự, Xử phạt: Bị cáo Đỗ Hoàng N 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Đỗ Hoàng N cho Ủy ban nhân dân xã A, thị xã B, tỉnh Bình Định để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã A, thị xã B, tỉnh Bình Định trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo Đỗ Hoàng N thay đổi nơi cư trú trong thời gian thử thách thì thực hiện theo Điều 68, Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người bị kết án Đỗ Hoàng N cố ý vi phạm 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người bị kết án Đỗ Hoàng N phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận 50.000.000 đồng bị cáo bồi thường, bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét.
3. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
- Trả cho bị cáo Đỗ Hoàng N 01 (một) xe ô tô tải biển kiểm soát số 49C- xxxxx; màu sơn: trắng, nhãn hiệu: JINBEI, số loại SY1022DEF, số máy: QC480QDIQ60624951D, số khung: LSYC3GM907H080238, tình trạng xe đã qua sử dụng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/11/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Hòa với Chi cục thi hành án dân sự huyện Sơn Hòa ngay trong ngày 10/01/2023. Yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên thực hiện ngay Quyết định này theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và chuyển lại thủ tục giao trả vật chứng cho Tòa án 01 bộ để lưu hồ sơ.
- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) khăn vải màu trắng bị vò nhàu, kích thước (20x20)cm (theo biên bản giao nhận vật chứng nói trên).
4. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
5. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Đỗ Hoàng N phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) Tiền án phí hình sự sơ thẩm.
6. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết công khai.
Bản án về tội dâm ô người dưới 16 tuổi số 01/2023/HS-ST
Số hiệu: | 01/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sơn Hòa - Phú Yên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/01/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về