TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM HÀ, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 03/2023/HS-ST NGÀY 15/02/2023 VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 15 tháng 02 năm 2023 tại Tòa án nhân dân huyện Đ, xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số 01/2023/TLST-HS ngày 08 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2023 /QĐXXST-HS ngày 08 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Trí H, tên gọi khác: không: sinh ngày 09/12/1995, tại huyện T, tỉnh D; Nơi cư trú: thôn Đ, xã D, huyện Đ, tỉnh Q; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Trí L, con bà: Tô Thị H1; Vợ con: chưa có.
Tiền án, tiền sự: không có.
Bị bắt trong trường hợp khẩn cấp ngày 16/01/2023. Hiện đang tạm giam; Có mặt tại phiên toà.
Bị hại: Cháu Bùi Thị T: sinh ngày 21/9/2010: nơi cư trú: Khu E, phường H, thành phố M, tỉnh Q. Vắng mặt tại phiên toà, có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của bị hại:
Anh Bùi Văn Đ: sinh năm 1978: nơi cư trú: Khu E, phường H, thành phố M, tỉnh Q. Nghề nghiệp: lao động tự do là bố đẻ của bị hại. Có mặt tại phiên toà.
- Người làm chứng:
+ Chị Tô Thị P, sinh năm 1970. Nơi cư trú: thôn N, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Q. Có mặt tại phiên toà.
+ Cháu Đoàn Quốc Q, sinh ngày 03/02/2008. Nơi cư trú: thôn N, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Q. Vắng mặt tại phiên toà.
+ Người đại diện của cháu Đoàn Quốc Q: chị Phạm Thị T1 (là mẹ đẻ của cháu Q). sinh năm: 1988. Nơi cư trú: thôn N. xã Đ. huyện Đ, tỉnh Q. Vắng mặt tại phiên toà.
+ Cháu Bùi Phạm Cát T2, sinh ngày 01/8/2014. Nơi cư trú: thôn N, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Q. Vắng mặt tại phiên toà.
+ Người đại diện của cháu Bùi Phạm Cát T2: anh Bùi Quốc T3 (là bố đẻ của cháu T2), sinh năm: 1983. Nơi cư trú: thôn N, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Q. Vắng mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 16/01/2023, Nguyễn Trí H đến nhà bạn là anh Bùi Mạnh C (C là con của anh Bùi Quốc T3) ở thôn N, xã Đ, huyện Đ chơi. Lúc này, cháu Bùi Thị T (sinh ngày 21/9/2010. ĐKHKTT tại khu E, phường H, thành phố M) và các cháu Đoàn Quốc Q (sinh năm 2008, trú tại thôn N, xã Đ, huyện Đ), Bùi Phạm Cát T2 (sinh năm 2014, em gái anh C) đang chơi trò đuổi bắt quanh các phòng trong nhà. Thấy vậy, H cũng trêu đùa nên lấy đoạn dây điện màu vàng dài 1,43m ờ cạnh góc tường đuổi theo kéo cháu T vào trong phòng ngủ của anh C dùng dây quấn 02 tay cháu T về phía trước rồi đi ra ngoài và đóng cửa phòng lại. Cháu T tự cởi dây và mở cửa phòng chạy ra, tiếp tục nô đùa. H lại tiếp tục đuổi theo kéo cháu T vào giường trong phòng ngủ anh C, dùng đoạn dây điện trên quấn nhiều vòng vào 02 chân và lấy đoạn dây nilon màu xanh trên nóc tủ lạnh ở gian bếp buộc 02 tay cháu T về phía trước. Lúc này, H nảy sinh ý định dâm ô với cháu T nên đi ra đưa tiền cho cháu Q nhờ đi mua thuốc lá và bánh, mục đích để cháu Q đi ra ngoài. Sau đó, H khoá cửa phòng và đến ngồi bên cháu T, lấy chăn trùm lên cả hai rồi kẻo cháu T nằm xuống giường, dùng tay xoa lên vùng bụng rồi sờ vùng ngực trái cháu nhiều lần và hôn lên má, sau đó H nằm ôm cháu T. Cháu T dùng tay, chân đạp, đẩy H ra và hô lên “Cát Tường ơi cứu chị với”. Do cửa phòng khoá, cháu T2 không vào được nên đã chạy sang nhà bà Tô Thị P (sinh năm 1970) ở gần đó, báo cho bà P biết. Chán T tự mở cửa phòng chạy ra ngoài.
Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể ngày 16/01/2023 của Trung tâm y tế huyện Đ kết luận: Cổ tay hai bên có vết hằn đỏ nhẹ, vết xây xước da nhẹ. Các bộ phận còn lại không phát hiện dấu vết gì.
Quá trình điều tra, tại phiên toà bị cáo Nguyễn Trí H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Đồng thời khẳng định: Bị cáo không có mục đích giao cấu hoặc các hành vi quan hệ tình dục khác với cháu T. Nói lời sau cùng, bị cáo ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình và đề nghị được giảm nhẹ hình phạt.
Bị hại cháu Bùi Thị T vắng mặt tại phiên toà có lời khai trong quá trình điều tra và trong hồ sơ vụ án thể hiện: Khoảng 12 giờ ngày 16/01/2023 T, cùng Cát T2, Duy K đến nhà chú T3 (là bố đẻ anh C) ở thôn N, xã Đ. huyện Đ, tỉnh Q chơi. Tại nhà anh T3, T gặp Q, C và H. Sau đó H chở C đi đâu không rõ, một lúc sau H quay lại nhà C. Lúc này T đang nô đùa cùng với cát T2. Sau khi quay về nhà C. H đã hai lần trói tay của cháu T và nhốt ở trong phòng của C. Lần đầu cháu T dùng miệng để cởi trói tay cho mình rồi chạy ra ngoài. Lần thứ hai H có nhờ Q giữ tay để H trói tay và chân của T. Lúc này trong phòng ngủ của C có H,T và Q. Q ngồi chơi điện thoại, còn H trùm chăn lên người T và nằm cạnh T. Sau đó, H đưa tiền cho Q nhờ đi mua thuốc lá và bánh về ăn. Khi Q cầm tiền đi mua đồ, thì H nằm bên cạnh cháu T đã dùng tay phải luồn từ dưới áo lên xoa vào vùng bụng, vùng ngực bên trái của T 02 đến 03 lần. Sau đó H tiếp tục hôn vào má của T. T dùng tay, chân để đầy H ra và hô lên: “Cát Tường ơi cứu chị” thì T nghe thấy tiếng của Cát T2 phòng bên vọng sang là “không cứu được đâu”, còn H bảo với T là: “đợi mẹ P đến chuộc” rồi dùng chân đè lên người T không cho dậy. Sau đó Q đi mua đồ về, H mở cửa cho Q vào phòng. Q vào phòng ngồi chơi điện thoại còn H nằm cạnh T. Sau đó, T nghe thấy Cát T2 nói: “Chị T ơi, mẹ chị sang rồi” thì T bật dậy. Lúc này H giữ người T lại thi T nói: “mẹ em sang rồi bỏ em ra”. Sau đó T tự mở cứa đi ra khỏi phòng. Sau khi ra ngoài Cát T2 lấy kéo cắt dây nhựa màu xanh buộc ở tay T và T tự tháo dây điện buộc ở chân.
Đại diện hợp pháp của bị hại anh Bùi Văn Đ tại phiên toà trình bày: Gia đình yêu cầu bị cáo phải bồi thường về mặt tinh thần cho bị hại với số tiền là 15.000.000 đồng.
Người làm chứng là cháu Đoàn Quốc Q tại cơ quan điều tra có lời khai thể hiện: Ngày 16/01/2023 cháu có chơi tại nhà anh C tại thôn N, xã Đ, huyện Đ. Khi Q đang ngồi chơi phòng khách thì nghe thấy tiếng của T hét “Cát T2 ơi cứu tao” thi Q đi xuống phòng C thì thấy cửa bên trong bị khoá. Q gọi cửa thì H mở cửa phòng, khi vào phòng Q thấy tay của T đang bị trói bằng dây điện màu vàng. Q ngồi trong phòng chơi điện thoại không để ý H và T làm gì mà chỉ nghe thấy tiếng cười đùa của 2 hai người. Sau đó Q về nhà, một lúc sau Q lại sang nhà C và gọi cửa phòng của C. Lúc này, H ra mở cửa, khi vào phòng Q thấy tay của T đang bị trói bằng dây nhựa màu xanh và chân trói bằng dây điện màu vàng. Sau đó, H nhờ Q đi mua thuốc lá và đồ ăn. Khi quay lại Q ngồi chơi điện thoại còn H và T vẫn nằm trên giường. Một lúc sau thi bà P sang và cầm gậy đánh H và Q.
Người làm chứng là cháu Bùi Phạm Cát T2 tại cơ quan điều tra có lời khai thể hiện: Trưa ngày 16/01/2023 T sang nhà Cát T2 chơi. Khi T đang đứng ở gian bếp thì thấy H kéo T vào phòng của C chốt cửa lại, làm gì trong đó thì Cát T2 không biết. Một lúc sau T2 nghe thấy T gọi “Cát Tường ơi cứu chị”. T2 ra khỏi phòng mình thì lại nghe thấy tiếng H nói: “mày sang tao trói cả mày”. Nghe vậy, Cát T2 không dám sang phòng C mà sang nhà gọi chị P (là mẹ của T) nói “Chị T bị mấy anh bắt nhốt ở trong phòng không cho ra”. Thấy T2 nói vậy chị P đi cùng T2 sang bên nhà T2. Về nhà T2 nói: “Chị T ơi mẹ chị sang rồi”. T2 thấy T đi từ trong phòng C ra hai tay và hai chân bị trói. Sau đó T2 lấy kéo để cắt dây trói tay cho T, còn T tự cởi trói ở chân.
Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01/QĐ-VKSĐH ngày 08/02/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo Nguyễn Trí H về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo khoản 1 Điều 146 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Trí H thừa nhận hành vi phạm tội mình đã thực hiện như nội dung Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn của Viện kiểm sát đối với bị cáo. Bị cáo không thắc mắc gì về nội dung Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn. không khiếu nại thắc mắc gì về kết luận khám xét thân thể, các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Bị cáo chấp nhận bồi thường cho cháu T tổn thất về tinh thần số tiền là 15.000.000 đồng.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Trí H phạm tội Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 146; điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Trí H từ 06 tháng đến 09 tháng tù, về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 16/01/2023.
Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS: khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy 01 đoạn dây nilon màu xanh, bản rộng 3,2cm, có nhiều nút thắt, một đầu dây có vết cắt sắc gọn; 01 đoạn dây điện dài 1,43m màu vàng, rộng 0,7cm, một đầu dây nối với phích cắm điện màu trắng, đầu còn lại được cắt vỏ để lộ ra 02 lõi dây màu trắng đỏ.
Về bồi thường dân sự: Đề nghị áp dụng điểm b, khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 592 Bộ luật dân sự: Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo và anh Đ, bị cáo bồi thường cho cháu T thiệt hại tổn thất về tinh thần số tiền là 15.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bảo đảm các quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng; không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2] Về tố tụng: Người bị hại là cháu Bùi Thị T vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt, người làm chứng là cháu Đoàn Quốc Q. Bùi Phạm Cát T2 vắng mặt, việc vắng mặt của bị hại, người làm chứng không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên căn cứ Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[3] Về chứng cứ xác định có tội:
Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố. phù hợp lời khai của bị hại, biên bản khám xét thân thể của Trung tâm y tế huyện Đ, cùng các tài liệu chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ xác định:
Ngày 16/01/2023, tại nhà riêng của anh Bùi Quốc T3 (là bố đẻ của Bùi Mạnh C) ở thôn N, xà Đ. huyện Đ, tỉnh Q, Nguyễn Trí H sinh ngày 09/12/1995 có hành vi dùng tay xoa, sờ soạng qua lớp quần áo vào ngực, bụng và hôn vào má của cháu Bùi Thị T - sinh ngày 21/9/2010 đê thỏa mãn nhu cầu sinh lý cá nhân nhưng không nhằm mục đích giao cấu hoặc thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác. Tại thời điểm này cháu Bùi Thị T mới 12 năm 3 tháng 25 ngày tuổi.
Bị cáo là người đã trưởng thành có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Bị cáo lợi dụng sự non nớt, yếu thế và hạn chế về khả năng tự vệ của trẻ em gái, cố ý xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục, đặc biệt trẻ em là đối tượng được pháp luật bảo vệ về thân thể, danh dự, nhân phẩm. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến sự phát triển bình thường về thể chất và tâm sinh lý của trẻ em ở độ tuổi dưới 16 tuổi. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bình thường của trẻ em mà còn gây mất trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục.
Tại phiên toà bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình theo Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn và lời luận tội của Viện kiểm sát. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Trí H phạm tội Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi được quy định tại khoản 1 Điều 146 Bộ luật hình sự.
Khoản 1 Điều 146 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.” [4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hướng xử lý:
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
- Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo H nhằm cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, thành khẩn xin lỗi gia đình bị hại nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đề nghị áp dụng điều luật và mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.
[5] Về bồi thường dân sự: Anh Đ yêu cầu bị cáo phải bồi thường tổn thất tinh thần số tiền là 15.000.000 đồng, đây là yêu cầu chính đáng, phù hợp pháp luật. Tại phiên tòa bị cáo, anh Đ thống nhất thỏa thuận bị cáo bồi thường cho cháu T số tiền 15.000.000 đồng. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584,585, 592 Bộ luật dân sự: Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo và anh Đ: bị cáo bồi thường cho cháu T tổn thất tinh thần 15.000.000 đồng, anh Đ là người đại diện hợp pháp nhận thay cháu T số tiền này.
[6] Về vật chứng: 01 đoạn dây nilon màu xanh, bản rộng 3,2cm, có nhiều nút thắt, một đầu dây có vết cắt sắc gọn: 01 đoạn dây điện dài 1,43m màu vàng, rộng 0,7cm, một đầu dây nối với phích cắm điện màu trắng, đầu còn lại được cắt vỏ để lộ ra 02 lõi dây màu trắng đỏ là những vật không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Nguyễn Trí H phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”.
Căn cứ khoản 1 Điều 146; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Nguyễn Trí H 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2023.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng điểm b. khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 592 Bộ luật dân sự, chấp nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo và anh Đ: Bị cáo bồi thường cho cháu T tổn thất tinh thần số tiền là 15.000.000 đồng, anh Đ là người đại diện hợp pháp của cháu T nhận thay cháu T số tiền này.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, mà bị cáo chưa thi hành thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả (lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự).
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS: khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn dây nilon màu xanh, bản rộng 3,2cm, có nhiều nút thắt, một đầu dây có vết cắt sắc gọn; 01 đoạn dây điện dài 1,43m màu vàng, rộng 0,7cm, một đầu dây nối với phích cắm điện màu trắng, đầu còn lại được cắt vỏ để lộ ra 02 lõi dây màu trắng đỏ.
(Toàn bộ vật chứng tình trạng như biên bản dao nhận vật chứng, tài sản ngày 10/02/2023 giữa Công an Huyện Đ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ).
Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 331 và khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c, f khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 750.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hình sự. Tổng án phí bị cáo H phải nộp là 950.000 đồng (chín trăm năm mươi nghìn đồng).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Báo cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi số 03/2023/HS-ST
Số hiệu: | 03/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đầm Hà - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về