TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VẠN NINH - TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 42/2022/HS-ST NGÀY 07/06/2022 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN VÀ LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 07 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 32/2021/TLST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2021, đối với các bị cáo:
1. Trần Văn K (Tên gọi khác: L) - sinh ngày 03/6/2001 tại Đắk Lắk; nơi cư trú: Thôn T, xã E, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Không; con ông Trần H và bà Lê Thị Kim L; chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Ngày 31.8.2020, thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại huyện Cần Đước, tỉnh Long An; ngày 05.9.2020, thực hiện hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định; ngày 13.9.2020, thực hiện hành vi Cướp tài sản tại huyện Cư M'gar, tỉnh Đắk Lắk; ngày 25.9.2020, thực hiện hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Các hành vi phạm tội này đã được Tòa án nhân dân huyện Cư M'gar, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 11(mười một) năm 03 (ba) tháng tù tại Bản án số: 32/2021/HS-ST ngày 27.5.2021, án đã có hiệu lực pháp luật. Ngày 28.9.2021, Tòa án nhân dân huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk đã xét xử tại Bản án số: 49/2021/HSST, xử phạt 11 tháng tù về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt với Bản án số: 32/2021/HS-ST ngày 27.5.2021 của Tòa án nhân dân huyện Cư M'gar, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 11(mười một) năm 03(ba) tháng tù. Bị cáo Trần Văn K phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 12 (mười hai) năm 02(hai ) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giam 07/10/2020.
Hiện đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam Đắk Tân - Bộ Công an (xã Ea Pil, huyện M’Rắk, tỉnh Đắk Lắk). Có mặt.
2. Trần Văn L – sinh năm: 1995 tại Đắk Lắk; nơi cư trú: Thôn T, xã E, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 8/12; nghề nghiệp: Không; con ông Trần H và bà Lê Thị Kim L; chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Ngày 31.8.2020, thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại huyện Cần Đước, tỉnh Long An; ngày 05.9.2020, thực hiện hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định; ngày 13.9.2020, thực hiện hành vi Cướp tài sản tại huyện Cư M'gar, tỉnh Đắk Lắk; ngày 25.9.2020, thực hiện hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Các hành vi phạm tội này đã được Tòa án nhân dân huyện Cư M'gar, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 11(mười một) năm 06(sáu) tháng tù tại Bản án số: 32/2021/HS-ST ngày 27.5.2021, án đã có hiệu lực pháp luật. Ngày 28.9.2021, Tòa án nhân dân huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk đã xét xử tại Bản án số: 49/2021/HSST, xử phạt 01(một) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, Tổng hợp hình phạt với Bản án số: 32/2021/HS-ST ngày 27.5.2021 của Tòa án nhân dân huyện Cư M'gar, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 11(mười một) năm 06 (sáu) tháng tù. Bị cáo Trần Văn L phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giam 07/10/2020.
Hiện đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam Đắk Tân - Bộ Công an (xã Ea Pil, huyện M’Rắk, tỉnh Đắk Lắk). Có mặt.
Bị hại: Ông Phan Thành T - sinh năm 1960; trú tại: Hà Thanh x, phường N, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 17/8/2020 Trần Văn K, Trần Văn L đi từ Đắk Lắk đến thị xã Ninh Hòa – Khánh Hòa để tìm việc làm. Đến khoảng 19 giờ 00 phút cùng ngày, cả hai đến ngã ba Hyundai thuộc Tổ dân phố Hà Thanh 2 - phường Ninh Đa - thị xã Ninh Hòa - tỉnh Khánh Hòa và đang đi bộ tìm nhà nghỉ để ngủ.
Lúc này Phan Thành T làm nghề chạy xe ôm thấy K và L đi bộ nên điều khiển xe 79H1-031.15 của mình chạy đến hỏi K và L có đi xe thồ không? K và L nói không rồi bỏ đi nhưng T vẫn điều khiển xe mô tô đi theo và nài nỉ. Lúc này K thấy T đã say nên nảy sinh ý định cướp chiếc xe mô tô của T để bán lấy tiền tiêu xài nên rủ L tham gia, L đồng ý. Cả hai thống nhất giả vờ thuê xe đi xa, khi nào thuận lợi thì cướp xe. L kêu T chở ra thị trấn Vạn Giã, hai bên thống nhất giá cả là 150.000 đồng. Do T đã say nên K bảo T đưa xe cho K chở, T đồng ý. K điều khiển xe chở T ngồi giữa và L ngồi sau, chạy theo đường Quốc lộ 1A hướng về thị trấn Vạn Giã. Trên đường đi cả hai thấy không có điều kiện thuận lợi để thực hiện việc cướp tài sản nên khi đến thị trấn Vạn Giã thì L nói chưa đến nơi và bảo K tiếp tục chạy theo đường Quốc lộ 1A . Khi xe chạy đến khu vực thôn Ninh Lâm, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa là khu vực hoang vắng không có nhà dân thì K dừng xe lại và tất cả xuống xe, L kêu T chờ một tí để người nhà đến trả tiền. Khi T vừa xuống xe lợi dụng lúc không có phương tiện xe qua lại nên K dùng tay kẹp cổ T kéo xuống chân đường Quốc lộ 1A và vật T té xuống đất làm rơi mũ bảo hiểm. L nhặt mũ bảo hiểm đánh trúng vào đầu T làm vỡ mũ bảo hiểm. Khải đe dọa T bảo nằm im nếu chống cự sẽ bị đánh nên T sợ và nằm im. L dùng tay móc túi sau quần của T lấy chiếc ví da và bảo T đưa điện thoại nhưng T nói không có điện thoại nên cả hai tiếp tục lấy xe 79H1-031.15 của T rồi rồi chạy về hướng Phú Yên. Trên đường đi L lấy chiếc ví da kiểm tra tiền được 825.000 đồng, L lấy tiền cất vào túi rồi ném chiếc ví da xuống đường. Khi xe chạy được khoảng 5 - 6 km thì cả hai dừng xe lại kiểm tra trong cốp xe có 01 võng dù và 01 áo khoác, tất cả đã cũ và rách mà T bỏ theo để lau và che nắng cho xe nên L đem vứt bỏ xuống cầu. Sau đó cả hai tiếp tục chạy xe đi đến thành phố Quy Nhơn – Bình Định và bán xe 79H1- 031.15 cho một người đàn ông không rõ tên với giá 1.800.000 đồng rồi cả hai tiêu xài hết số tiền này. Sau đó, hành vi của K và L bị phát hiện. Đối với chiếc xe 79H1-031.15 do không xác định được người mua nên chưa thu hồi được. Đối với chiếc ví da, áo khoác và võng dù cũ rách L khai đã vứt bỏ dọc đường Quốc lộ 1A, Cơ quan điều tra đã tổ chức truy tìm nhưng không thu giữ được.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 100/2020/KL-TTHS ngày 05/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Vạn Ninh kết luận tài sản bị cướp gồm 01 xe mô tô biển số 79H1-031.15 và 01 ví da nam tổng giá trị 8.490.000 đồng (tám triệu bốn trăm chín mươi nghìn đồng).
Bị hại ông Phan Thành T không yêu cầu bồi thường chiếc mũ bảo hiểm bị vỡ, chiếc võng dù và áo khoác đã cũ rách không có giá trị sử dụng.
Bị hại ông Phan Thành T bị K và L ôm vật và dùng mũ bảo hiểm đánh nhưng không gây thương tích, bị hại không có yêu cầu gì.
Đối với người đàn ông đã mua xe 79H1-031.15 do chưa xác định được lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục làm rõ xử lý sau.
* Vật chứng vụ án: Thu giữ 01 (một) mũ bảo hiểm gồm 02 phần:
- Phần vỏ mũ làm bằng nhựa cứng, màu đen kích thước (23x20)cm.
- Phần trong mũ làm bằng xốp cứng màu trắng kích thước (22x20)cm.
Tại bản Cáo trạng số 33/CT-VKSVN ngày 12 tháng 5 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vạn Ninh - tỉnh Khánh Hòa đã truy tố Trần Văn Khải, Trần Văn Linh về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên tòa:
- Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.
- Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Văn K, Trần Văn L theo tội danh, khung hình phạt như trên và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55, Điều 56 của Bộ luật Hình sự, tuyên phạt:
Bị cáo Trần Văn K từ 07 năm 03 tháng tù đến 07 năm 09 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt là 12 (mười hai) năm 02(hai) tháng tại Bản án số: 49/2021/HSST, ngày 28/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện EaKar, Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung từ 19 năm 05 tháng tù đến 19 năm 11 tháng tù. thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giam 07/10/2020.
Bị cáo Trần Văn L từ 07 năm tù đến 07 năm 06 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt là 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù tại Bản án số: 49/2021/HSST, ngày 28/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung từ 19 năm 06 tháng tù đến 20 năm tù. thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giam 07/10/2020.
Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa các bị cáo Trần Văn K, Trần Văn L với bị hại ông Phan Thành T bồi thường thiệt hại về tài sản là bị cáo Trần Văn K, bị cáo Trần Văn L liên đới bồi thường cho ông Phan Thành T số tiền 9.315.000 đồng (chín triệu ba trăm mười lăm nghìn đồng), mỗi bị cáo bồi thường 4.657.000 đồng ( Bốn triệu sáu trăm năm mươi bảy nghìn). Vật chứng vụ án đề nghị tịch thu, tiêu hủy.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vạn Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vạn Ninh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, bị hại,không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn K và bị cáo Trần Văn L đều đã khai nhận hành vi của các bị cáo như nội dung bản Cáo trạng số: 33/CT-VKSVN ngày 12 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vạn Ninh - tỉnh Khánh Hòa đã nêu. Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với các chứng cứ khác đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vạn Ninh thu thập được. Như vậy, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 17/8/2020 tại khu vực đường Quốc lộ 1A thôn Ninh Lâm, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, Trần Văn K, Trần Văn L đã có hành vi dùng vũ lực ôm vật và dùng mũ bảo hiểm là phương tiện nguy hiểm đánh vào người của Phan Thành T để cướp 01 xe mô tô biển số 79H1-031.15, 01 ví da có 825.000 đồng, tổng giá trị bị cướp 9.315.000 đồng (chín triệu ba trăm mười lăm nghìn đồng).
Theo quy định về tội “Cướp tài sản” tại điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự thì:
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: …….
d, Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;” Hành vi trên của bị cáo Trần Văn K và bị cáo Trần Văn L, đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Cướp tài sản”. Tội và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Hành vi của các bị cáo là rất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của ông Phan Thành T được pháp luật bảo vệ.
Về nhân thân: Hiện bị cáo K đang phải chấp hành án tại Bản án số 49/2021/HSST, ngày 28/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk, xử phạt 11 tháng tù về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt với Bản án số: 32/2021/HS-ST ngày 27.5.2021 của Tòa án nhân dân huyện Cư M'gar, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 11(mười một) năm 03(ba) tháng. Bị cáo Trần Văn K phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 12 ( mười hai) năm 02(hai ) tháng tháng tù, chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giam 07/10/2020. Bị cáo L đang phải chấp hành án tại Bản án số 49/2021/HSST, ngày 28/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk, xử phạt 01(một) năm tù về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, Tổng hợp hình phạt với Bản án số: 32/2021/HS-ST ngày 27.5.2021 của Tòa án nhân dân huyện Cư M'gar, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 11(mười một) năm 06( sáu) tháng. Bị cáo Trần Văn L phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 12 ( mười hai) năm 06(sáu) tháng tháng tù, chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giam 07/10/2020.
Nay bị cáo K, bị cáo L lại bị xét xử về tội “ Cướp tài sản” đã phạm tội trước khi có bản án trên. Vì vậy cần phải tổng hợp hình phạt đối với bị cáo K, bị cáo L theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo K, bị cáo L phải chịu một mức án chung để cải tạo, giáo dục bị cáo và ngăn ngừa các hành vi tương tự.
- Xét vai trò của từng bị cáo:
+ Bị cáo K là người khởi xướng rủ bị cáo L cướp xe 79H1-031.15 của ông T, là người trực tiếp điều khiển xe mô tô 79H1-031.15 của ông T, K dùng tay kẹp cổ ông T kéo xuống chân đường Quốc lộ 1A và đe dọa ông T, để cướp 01 xe mô tô biển số 79H1-031.15, 01 ví da có 825.000 đồng. Nên bị cáo phải chịu mức án cao hơn bị cáo L.
+ Sau khi nghe bị cáo K rủ cướp xe 79H1-031.15 của ông T, bị cáo L đồng ý ngay, là người trực tiếp cầm mủ bảo hiểm đánh ông T, để cướp 01 xe mô tô biển số 79H1-031.15, 01 ví da có 825.000 đồng. Nên L phải chịu mức án tương xứng với hành vi mà bị cáo gây ra.
Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo, trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.
[4]Về vật chứng: 01 (một) mũ bảo hiểm gồm 02 phần: Phần vỏ mũ làm bằng nhựa cứng, màu đen kích thước (23x20)cm và phần trong mũ làm bằng xốp cứng màu trắng kích thước (22x20)cm. Không còn giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy.
[5] Về trách nhiệm dân sự:
- Tại phiên tòa bị hại ông Phan Thành T yêu cầu bị cáo Trần Văn K và bị cáo Trần Văn L phải liên đới bồi thương tài sản gồm xe, ví da và tiền tổng trị giá 9.315.000 đồng (chín triệu ba trăm mười lăm nghìn đồng). Bị cáo Trần Văn K và bị cáo Trần Văn L đồng ý liên đới bồi thường số tiền 9.315.000 đồng (chín triệu ba trăm mười lăm nghìn đồng), trong đó bị cáo K bồi thường 4.657.000 đồng (Bốn triệu sáu trăm năm mươi bảy nghìn). bị cáo L bồi thường 4.657.000 đồng (Bốn triệu sáu trăm năm mươi bảy nghìn), nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa các bị cáo Trần Văn K, Trần Văn L với bị hại ông Phan Thành T. Bị cáo K, bị cáo L liên đới bồi thường cho ông T số tiền 9.315.000 đồng (chín triệu ba trăm mười lăm nghìn đồng), trong đó bị cáo K bồi thường 4.657.000 đồng (Bốn triệu sáu trăm năm mươi bảy nghìn) và bị cáo L bồi thường 4.657.000 đồng (Bốn triệu sáu trăm năm mươi bảy nghìn).
[6] Về án phí: Các bị cáo Trần Văn K và Trần Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với các bị cáo Trần Văn K, Trần Văn L.
- Xử phạt Trần Văn K (Tên gọi khác: L) 07( bảy) năm 06 ( sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp với hình phạt là 12 (mười hai) năm 02 (hai) tháng tù tại Bản án số: 49/2021/HSST, ngày 28/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk (xử phạt 11 tháng tù về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tổng hợp hình phạt với Bản án số: 32/2021/HS-ST ngày 27.5.2021 của Tòa án nhân dân huyện Cư M'gar, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 11(mười một) năm 03(ba) tháng tù) . Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 19 (mười chín) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giam ngày 07 tháng 10 năm 2020. Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.
- Xử phạt Trần Văn L 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Cướp tài sản”.
Tổng hợp với hình phạt là 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù tại Bản án số: 49/2021/HSST, ngày 28/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk (xử phạt 01(một) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tổng hợp hình phạt với Bản án số: 32/2021/HS-ST ngày 27/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Cư M'gar, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 11(mười một) năm 06 (sáu) tháng tù). Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 19 (mười chín) năm 09(chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giam ngày 07 tháng 10 năm 2020. Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.
- Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 586, 587, 589 của Bộ luật Dân sự Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa các bị cáo Trần Văn K, Trần Văn L với bị hại ông Phan Thành T bồi thường thiệt hại về tài sản là bị cáo Trần Văn K, bị cáo Trần Văn L liên đới bồi thường cho ông Phan Thành T số tiền 9.315.000 đồng (chín triệu ba trăm mười lăm nghìn đồng); trong đó bị cáo Trần Văn K bồi thường cho ông Phan Thành T số tiền là 4.657.000 đồng (bốn triệu sáu trăm năm mươi bảy nghìn) và bị cáo Trần Văn L bồi thường cho ông Phan Thành T số tiền 4.657.000 đồng (bốn triệu sáu trăm năm mươi bảy nghìn).
Quy định: Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) mũ bảo hiểm gồm 02 phần: Phần vỏ mũ làm bằng nhựa cứng, màu đen kích thước (23x20)cm và phần trong mũ làm bằng xốp cứng màu trắng kích thước (22x20)cm. (Tình trạng vật chứng như biên bản về việc giao, nhận vật chứng ngày 19 tháng 5 năm 2021 giữa Công an huyện Vạn Ninh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vạn Ninh).
- Về án phí:
+ Án phí dân sự: Các bị cáo Trần Văn K, Trần Văn L mỗi bị cáo phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng ( ba trăm nghìn đồng) + Án phí hình sự: Các bị cáo Trần Văn K, Trần Văn L mỗi bị cáo phải phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đồng (hai trăm nghìn).
- Quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm.
* Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại Điều 6, 7,7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội cướp tài sản và lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 42/2022/HS-ST
Số hiệu: | 42/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vạn Ninh - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về