Bản án về tội cướp tài sản số 94/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 94/2023/HS-ST NGÀY 25/12/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 70/2023/HSST ngày 03/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2023/QĐXXST-HS ngày 12/12/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trịnh Quốc K sinh ngày 11 tháng 8 năm 2007, tại N, Ninh Bình; đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 15 tuổi 06 tháng 14 ngày; giới tính: Nam; nơi cư trú: phố Nam Giang, thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Mường; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; con ông: Trịnh Quốc Toản, con bà: Hoàng Thị Đ; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Trịnh Quốc K: ông Phạm Duy H - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Ninh Bình; có mặt.

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Trịnh Quốc K: bà Hoàng Thị Đ sinh năm 1985; trú tại: phố Nam Giang, thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình; có mặt.

- Bị hại: bà Đinh Thị H sinh năm 1953; trú tại: phố Tiên Lạo, thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.

- Người làm chứng: chị Hoàng Thị Kim C, anh Lê Đức A, anh Hoàng Văn T; vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trịnh Quốc K, sinh ngày 11/8/2007 là học sinh lớp 10A của Trung tâm giáo dục thường xuyên huyện N. Khoảng 11 giờ ngày 25/02/2023 (Thời điểm này K đang ở độ tuổi 15 tuổi, 06 tháng, 14 ngày), sau khi tan học ở lớp, K một mình điều khiển xe mô tô, nhãn hiệu Yamaha Sirius, lắp BKS: 35AN - X đi từ Trường học để về nhà tại thôn Phong Thành, xã Đồng Phong, huyện N. Khoảng 11 giờ 10 phút cùng ngày, khi đi đến đoạn đường nội đồng bằng bê tông, thuộc địa phận phố Tiên Lạo, thị trấn N, huyện N thì K nhìn thấy phía bên phải theo chiều đi của mình có bà Đinh Thị H, sinh ngày 10/3/1953 trú tại phố Tiên Lạo, thị trấn N, huyện N đang một mình hái rau tại bờ ruộng gần đường bê tông thuộc cánh đồng phố Tiên Lạo, thị trấn N (ruộng rau gần nhà bà H). Khi đi qua vị trí bà H, K đã quan sát thấy trên cổ bà H đang đeo 01 sợi dây chuyền vàng. Do trước đó K biết vào tối cùng ngày, là đêm diễn ca nhạc thứ hai của ca sỹ Hà Anh Tuấn tại huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình (“Hà Anh Tuấn Live Concert 2023 - Chân trời rực rỡ”) mà bản thân K lúc này lại không có tiền nên K đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc dây chuyền vàng đang đeo trên cổ của bà H để bán lấy tiền ăn tiêu và mua vé xem ca nhạc.

Để thực hiện mục đích của mình, K đã điều khiển xe mô tô quay ngược lại, đi qua cách vị trí của bà H khoảng vài mét. Lúc này bà H không để ý và tiếp tục hái rau trong tư thế cúi người, quay lưng về phía K. K dừng lại (không tắt động cơ) rồi dựng xe trên đường bê tông sau đó nhẹ nhàng đi bộ xuống vị trí của bà H thì bà H cảm nhận phía sau có người đi đến nên đã nhỏm người quay đầu về phía bên trái để nhìn về phía sau thì thấy K đi đến ngay sau lưng mình. Thấy vậy bà H nói:”Mày làm gì đấy?”, ngay lập tức K sử dụng hai tay đẩy mạnh vào vai của bà H, do bà H đang ngoái nhìn về phía sau nên khi bị K đẩy thì bà H bị trượt chân rồi ngã nghiêng về bên phải, sau đó bị ngã ngửa người ra. K tiếp tục xông tới, sử dụng tay trái giữ đè người của bà H xuống nền ruộng rồi dùng tay trái bịt miệng bà H, còn tay phải của K đưa vào vị trí gần cổ của bà H để giật lấy sợi dây chuyền vàng nhưng chưa lấy được thì bị bà H phản kháng, sử dụng cả hai tay hai chân của mình khua khoắng, chống trả và đẩy người và hất tay trái của K ra khỏi miệng của mình định hô hoán. Ngay lập tức bà H tiếp tục bị K đè, giữ, ghì người xuống nền ruộng sử dụng tay trái bịt vào miệng để không cho bà H hô hoán, còn tay phải của K tiếp tục đưa vào vị trí gần cổ của bà H để lấy sợ dây chuyền vàng. Tuy nhiên do bà H chống trả quyết liệt sử dụng hai tay của mình hất tay K khỏi miệng và cổ;

sử dụng chân đạp đẩy người K ra nên K không thể cầm lấy được sợi dây chuyền vàng đang đeo trên cổ của bà H. Ngay khi không còn bị bịt miệng nữa, bà H hô lên :”Cướp, cướp” thì lúc này cách đó khoảng 100 mét có anh Hoàng Văn T sinh năm 1988 trú tại phố Tân Lập, thị trấn N, huyện N đang điều khiển xe mô tô trên đường cánh đồng nêu trên, đi từ hướng xã Đồng Phong, huyện N về hướng thị trấn N. Cùng lúc này, tại nhà ở của bà H ở gần ruộng rau nêu trên có chị Hoàng Thị Kim C, sinh năm 1987 trú tại cùng thôn (là con dâu bà H) nghe thấy tiếng hô hoán kêu cứu của bà H cũng đi ra xem xét sự việc. Lúc này khi K chưa kịp chiếm đoạt được sợi dây chuyền vàng của bà H thì phát hiện thấy anh T đi đến gần, do đó K đã bỏ người bà H ra rồi chạy bộ từ ruộng rau lên đường bê tông, điều khiển xe mô tô bỏ chạy về hướng thị trấn N, huyện N. Anh T, chị C đi đến nơi hỏi bà H thì xác định bà H chưa bị chiếm đoạt tài sản gì nên anh T không truy đuổi theo K, còn chị C đã đến ngay Công an thị trấn N, huyện N để trình báo.

Công an thị trấn N, huyện N đã tiếp nhận, lập biên bản vụ việc và xác minh ban đầu đã trích xuất lại dữ liệu điện tử được lưu trữ tại camera an ninh nhãn hiệu Yoosee của nhà bà H (mắt quay camera quay hướng ra ruộng rau nhà bà H nơi xảy ra sự việc) ghi lại diễn biến hành vi K sử dụng vũ lực nhằm chiếm đoạt sợi dây chuyền vàng của nhà bà H như đã nêu trên, dữ liệu được lưu trữ vào 01 đĩa DVD-R nhãn hiệu Maxell và niêm phong theo đúng quy định. Đồng thời Công an thị trấn N đã thu giữ của bà H 01 sợi dây chuyền kim loại màu vàng dài 48cm gồm: 220 mắt xích, kích thước 0,2cm, 01 móc khóa; 01 mặt kim loại hình tròn màu vàng đường kính 02cm và niêm phong theo đúng quy định để phục vụ công tác điều tra.

Sau đó Công an thị trấn N đã tiến hành làm việc với Công an xã Đồng Phong, huyện N để “Xác minh đối tượng qua dữ liệu Camera” thu giữ tại nhà bà H, kết quả: Công an xã Đồng Phong, huyện N xác định phương tiện, con người tại dữ liệu điện tử mà Công an thị trấn N cung cấp nêu trên là Trịnh Quốc K.

Cùng ngày, Công an thị trấn N đã chuyển toàn bộ hồ sơ tài liệu, vật chứng, tài sản có liên quan đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N để giải quyết theo thẩm quyền.

Tiến hành triệu tập Trịnh Quốc K lên làm việc, tại Cơ quan điều tra thì K đã thừa nhận và xác định rõ về toàn bộ hành vi sử dụng vũ lực của bản thân mình nhằm chiếm đoạt sợi dây chuyền vàng của bà H như đã nêu không có sự mâu thuẫn. Đồng thời, Trịnh Quốc K còn giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N 01 xe mô tô, nhãn hiệu Yamaha Sirius, lắp BKS: 35AN - X.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình để giám định kỹ thuật số và điện tử đối với dữ liệu điện tử được sao lưu tại camera nhà bà H chứa trong 01 đĩa DVD-R nhãn hiệu Maxell nêu trên.

Tại bản Kết luận giám định số 275/KL-KTHS-KTS&ĐT ngày 31/3/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:

“- Không phát hiện dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung hình ảnh trong 01(một) tệp tin video lưu trữ trong đĩa DVD-R gửi giám định.

- Trích xuất được 06(sáu) ảnh mô tả diễn biến, nội dung liên quan đến hành vi “Cướp tài sản” trong tệp tin video lưu trữ trong đĩa DVD-R gửi giám định, ảnh trích xuất được thể hiện trong bản ảnh gửi kèm theo kết luận giám định”.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trưng cầu Viện khoa học hình sự Bộ công an để giám định hóa đối với 01 sợi dây chuyền kim loại màu vàng dài 48cm thu giữ của bà Đinh Thị H.

Tại bản Kết luận giám định số 1851/KL-KTHS-KTS&ĐT ngày 24/3/2023 của Viện khoa học hình sự Bộ công an kết luận:

“01(một) dây chuyền bằng kim loại được chế tác dạng các mắt xích nối với nhau, mặt dây chuyền bằng kim loại màu vàng chế tác dạng hình tròn, một mặt có hình con rồng, một mặt có hình bông hoa và số 2000 gửi giám định có tổng khối lượng 12,82 gam đều là hợp kim của vàng (Au), bạc (Ag), đồng (Cu), hàm lượng trung bình Au: 64,67%; Ag: 14,08%; Cu: 21,25%”.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trưng cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện N để xác định giá trị tài sản đối với 01 sợi dây chuyền kim loại màu vàng dài 48cm thu giữ của bà Đinh Thị H.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 10/KL-HĐĐG ngày 14/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản - Ủy ban nhân dân huyện N kết luận: 01 dây chuyền và mặt dây chuyền bằng vàng của bà Đinh Thị H trị giá 11.594.000 đồng.

Trong quá trình điều tra, người đại diện của Trịnh Quốc K là chị Hoàng Thị Đ sinh năm 1985 trú tại phố Nam Giang, thị trấn N, huyện N (là mẹ đẻ của K) có giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N một số tài liệu, hóa đơn về việc khám “Rối loạn hành vi trầm cảm có ý tưởng tự sát” của bản thân Trịnh Quốc K tại Viện sức khỏe tâm thần của Bệnh viện Bạch Mai - Bộ y tế. Cùng với các tài liệu, hóa đơn trên chị Đ đã có đơn đề nghị gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N để giám định về tâm thần đối với K.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trưng cầu Viện pháp y tâm thần trung ương để giám định về tâm thần đối với Trịnh Quốc K theo quy định.

Tại bản Kết luận số 200/KLGĐ ngày 28/6/2023 của Viện pháp y tâm thần Trung ương - Bộ y tế kết luận:

“Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 25/2/2023 và tại thời điểm giám định, đối tượng Trịnh Quốc K không có bệnh tâm thần. Tại các thời điểm trên đối tượng đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi”.

Tại bản cáo trạng số 75/CT-VKSNQ-HS ngày 02/10/2023, Viện Kiểm sát nhân huyện N truy tố bị cáo Trịnh Quốc K về tội “Cướp tài sản” theo khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ của vụ án, hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: bị cáo Trịnh Quốc K phạm tội “Cướp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 90, 91, 98 và Điều 100 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trịnh Quốc K từ 18 tháng đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 tháng đến 42 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương giám sát, giáo dục.

- Bị cáo không phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Tại bản luận cứ người bào chữa cho bị cáo Trịnh Quốc K xác định: hành vi phạm tội “Cướp tài sản”, bị cáo đã khai rất rõ. Việc truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật, song bị cáo Trịnh Quốc K, thời điểm phạm tội mới 15 tuổi, 06 tháng 14 ngày; có nhân thân tốt; phạm tội lần đầu; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; gia đình bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả, tài sản bị cáo chưa chiếm đoạt được; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng; được người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các quy định của pháp luật về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 100 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Trinh Quốc K đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi dùng vũ lực tấn công bà Đinh Thị H nhằm chiếm đoạt sợi dây chuyền vàng trên cổ của bà H, song không thành. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bị hại, bà Đinh Thị H khai báo: Khoảng hơn 11 giờ ngày 25/02/2023, bà đang làm vườn ở gần nhà thì bị Trịnh Quốc K dùng tay ẩy bà ngã và dùng tay trái bịt miệng bà, tay phải giật sợi dây chuyền vàng bà đang đeo trên cổ. Do bị bà chống trả quyết liệt và có người dân đi đến, nên K không chiếm đoạt được sợ dây chuyền. Sau khi sự việc xảy ra, gia đình K đã bồi thường tổn thất về tinh thần cho bà số tiền là 2.000.000 đồng. Về trách nhiệm dân sự bà không có yêu cầu gì thêm, bà có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho K.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Về trách nhiệm hình sự: Tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp lời khai người bị hại; bản kết luận định giá tài sản; vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên tòa. Đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 10 phút, ngày 25/02/2023, tại khu vực vườn rau thuộc cánh đồng phố Tiên Lạo, thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Trịnh Quốc K đã có hành vi dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt 01 sợ dây chuyền vàng đeo trên cổ của bà Đinh Thị H, trị giá 11.594.000 đồng. Hành vi nêu trên của bị cáo Trịnh Quốc K đã cấu thành tội: “Cướp tài sản”.

Điều 168: Tội cướp tài sản:

“ 1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

……………………………………………. „ Do vậy, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo biết rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình thực hiện. Đối chiếu với quy định của pháp luật hình sự, xét thấy hành vi, tội danh, điều khoản áp dụng tại bản cáo trạng, các chứng cứ buộc tội bị cáo của Kiểm sát viên trình bày tại phiên tòa là có căn cứ.

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Gia đình bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả; quá trình điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội; được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[3] Về hình phạt: Căn cứ quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới 15 tuổi, 06 tháng 14 ngày, có nơi cư trú rõ ràng, ổn định, tài sản bị cáo chưa chiếm đoạt được, không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội. Cho bị cáo cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát của chính quyền địa phương và gia đình, cũng đủ điều kiện để bị cáo tự cải tạo trở thành công dân tốt.

Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên áp dụng những quy định đối với người dưới 18 phạm tội tại chương XII của Bộ luật Hình sự để xử lý bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ:

- Đối với 01 dây chuyền và mặt dây chuyền bằng vàng của bà Đinh Thị H, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại cho bà H theo quy định. Sau khi nhận lại tài sản, bà H không có yêu cầu đề nghị gì.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, lắp BKS: 35AN - X do Trịnh Quốc K giao nộp. Quá trình điều tra xác định, chiếc xe mô tô trên là tài sản hợp pháp của anh Trịnh Quốc Toản, sinh năm 1978; trú tại: phố Nam Giang, thị trấn N (bố của K), còn 01 BKS: 35AN - X (lắp tại xe mô tô trên) là tài sản hợp pháp của K và đều không phải là vật chứng của vụ án này. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại cho anh Toản và K là có căn cứ.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình của Trịnh Quốc K đã bồi thường tổn thất tinh thần cho bà Đinh Thị H số tiền là 2.000.000 đồng, bà H đã nhận đủ số tiền trên và không có yêu cầu bồi thường gì thêm. Về trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; các Điều 90, 91, 100 của Bộ luật Hình sự.

1.Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Quốc K phạm tội “Cướp tài sản”.

Xử phạt: Trịnh Quốc K 18 (Mười tám) tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36(Ba mươi sáu) tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án (25/12/2023) . Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương giám sát, giáo dục.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát, giáo dục thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo lại cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2.Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án (25/12/2023); bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Truờng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự ; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 94/2023/HS-ST

Số hiệu:94/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về