TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 81/2023/HS-ST NGÀY 18/09/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Trong các ngày 13 và 18 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 55/2023/TLST-HS ngày 14 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2023/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Đặng Tiến C, sinh năm 1990 tại tỉnh Nghệ An.
Nơi cư trú: Khu phố C, Phường A, thành phố T, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Tiến K và bà Trần Thị L; có vợ tên Nguyễn Thị Thái Tường V, con: Chưa có.
- Tiền án: Bản án số 02/2016/HS-ST ngày 29/02/2016 của Tòa án Quân sự Quân khu 7 áp dụng khoản 2 Điều 93; điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 47, Điều 20, Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, xử phạt bị cáo Chung 06 (sáu) năm tù về tội “Giết người”.
- Tiền sự: Ngày 09/3/2022, Công an thành phố T, tỉnh Tây Ninh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 70/QĐ-XPHC xử phạt bị cáo Chung số tiền 6.000.000 đồng về hành vi “Xâm hại đến sức khoẻ của người khác và sử dụng công cụ hỗ trợ không có giấy phép”.
- Nhân thân: Bản án số 51/2008/HS-PT ngày 25/3/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh áp dụng khoản 2 Điều 104; điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46; Điều 60, Điều 69, Điều 74 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Chung 02 (hai) năm tù cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”. Bị cáo đã chấp hành xong bản án. Lần bị kết án này tính đến ngày phạm tội, bị cáo đã được xóa án tích.
+ Bản án số 129/2012/HS-ST ngày 28/11/2012 của Tòa án nhân dân thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh áp dụng điểm a khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1, 2 Điều 46; Điều 47, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Chung 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong bản án. Lần bị kết án này tính đến ngày phạm tội, bị cáo đã được xóa án tích.
+ Ngày 22/02/2021, Cồng an thành phố T, tỉnh Tây Ninh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 56/QĐ-XPHC xử phạt bị cáo Chung số tiền 2.500.000 đồng về hành vi “Xâm hại đến sức khoẻ của người khác”. Bị cáo nộp phạt vào ngày 24/02/2021. Lần bị xử lý này tính đến ngày phạm tội, đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính.
+ Ngày 25/3/2021, Công an P2, thành phố T, tỉnh Tây Ninh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 33/QĐ-XPHC xử phạt bị cáo Chung số tiền 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị cáo nộp phạt vào ngày 20/4/2021. Lần bị xử lý này tính đến ngày phạm tội, đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính.
Bị cáo bị tạm giữ ngày 03/3/2023, chuyển tạm giam từ ngày 09/3/2023 cho đến nay (có mặt).
2. Trần Hoàng N (tên gọi khác: Q), sinh năm 1995 tại tỉnh Tây Ninh.
Nơi cư trú: khu phố H, phường H, thị xã H, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn H và bà Nguyễn Thị P; vợ, con: Chưa có.
- Tiền án: 02 tiền án.
+ Bản án số 02/2016/HS-ST ngày 29/02/2016 của Tòa án Quân sự Quân khu 7 áp dụng khoản 2 Điều 93; điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46; Điều 47, Điều 20, Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, xử phạt bị cáo N 05 (năm) năm tù về tội “Giết người”.
+ Bản án số 58/2020/HS-ST ngày 22/6/2020 của Toà án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo N 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
- Tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ ngày 03/3/2023, chuyển tạm giam từ ngày 09/3/2023 cho đến nay (có mặt).
3. Nguyễn Lê Anh Q1, sinh năm 1992 tại tỉnh Tây Ninh.
Nơi cư trú: Khu phố C, Phường A, thành phố T, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Cao đài; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn An K1 (đã chết) và bà Lê Thị Thu C1; vợ con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.
- Nhân thân: Bản án số 52/2009/HS-ST ngày 26/3/2009 của Tòa án nhân dân thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, h, p khoản 1, 2 Điều 46; Điều 69, Điều 74 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Q1 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong bản án. Lần bị kết án này tính đến ngày phạm tội, bị cáo đã được xóa án tích.
+ Ngày 09/02/2017, Toà án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 46/2017/QĐ-TA đối với bị cáo Q1 trong thời hạn 18 tháng. Lần bị xử lý này tính đến ngày phạm tội, đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính.
Bị cáo bị tạm giữ ngày 03/3/2023, chuyển tạm giam từ ngày 09/3/2023 cho đến nay (có mặt).
4. Võ Trường S, sinh năm 1997 tại tỉnh Tây Ninh.
Nơi cư trú: Khu phố C, Phường C, thành phố T, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Hồng C2 và bà Nguyễn Thị Ngọc B; có vợ tên Đặng Thị Kim L1 và 01 con; tiền án, tiền sự: Không.
- Nhân thân: Bản án số 111/2019/HS-ST ngày 22/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo S 01 (một) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 29/4/2020. Bị cáo đóng án phí vào ngày 02/12/2019. Lần bị kết án này tính đến ngày phạm tội, bị cáo đã được xóa án tích.
Bị cáo bị tạm giữ ngày 03/3/2023, đến ngày 09/3/2023 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 09/3/2023 đến ngày 09/7/2023. Bị cáo tại ngoại (có mặt).
Bị hại: Ông Trần Thanh V1, sinh năm 1977 (chết ngày 12/3/2023).
Người đại diện hợp pháp cho bị hại Trần Thanh V1:
- Chị Trần Vũ Thúy V2, sinh năm 2001 (có đơn vắng mặt).
- Anh Trần Vũ Gia H1, sinh năm 2003 (vắng mặt).
Cùng trú tại: khu phố L, phường L, thị xã H, tỉnh Tây Ninh.
Người đại diện theo ủy quyền cho anh Trần Vũ Gia H1: Chị Trần Vũ Thúy V2, sinh năm 2001; trú tại: khu phố L, phường L, thị xã H, tỉnh Tây Ninh (văn bản ủy quyền ngày 23/5/2023).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Đặng Tiến C có mối quan hệ quen biết với người tên T (không rõ họ tên và địa chỉ). T nói với bị cáo Chung là ông Trần Thanh V1, sinh năm 1977, ngụ khu phố L, phường L, thị xã H, tỉnh Tây Ninh nợ T số tiền 25.000.000 đồng hơn 01 năm chưa trả, nên nhờ C khi nào gặp được thì đòi giúp cho T. Khoảng 12 giờ trưa ngày 02/3/2023, C gặp ông Lê Minh L2, sinh năm 1976, ngụ Khu phố C, Phường A, thành phố T, tỉnh Tây Ninh và biết ông L2 có quen biết ông V1 nên C nhờ ông L2 khi nào gặp được ông V1 thì nói cho C biết thì ông L2 đồng ý. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, ông L2 gọi điện thoại nói cho C biết sẽ gặp ông V1 tại quán cà phê “Dương Cổng C3” thuộc ấp B, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh. Lúc này, C đang ở trại gà thuộc phường N, thành phố T, tỉnh Tây Ninh cùng với các bị cáo Trần Hoàng N, Nguyễn Lê Anh Q1 và Võ Trường S nên rủ các bị cáo N, Q1, S cùng đi gặp ông V1 thì tất cả đồng ý. Khi đi bị cáo N mang theo 01 túi xách màu đen có chữ JINGPIN bên trong có một cây gậy ba khúc bằng kim loại màu vàng, vỏ nhựa màu đen. C điều khiển xe ô tô nhăn hiệu Mitsubishi Xpander biển số 70A-245.26 do C mượn của anh Trần Minh T1, sinh năm 1987, ngụ khu phố A, phường A, thị xã T, tỉnh Tây Ninh chở tất cả cùng đi đến quán cà phê “Dương Cổng Chào” của ông Nguyễn Thành P1, sinh năm 1975, thuộc ấp B, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh. Khi đến nơi, nhóm của C gặp ông L2 đang ngồi chờ ông V1 đến nên tất cả vào ngồi chung bàn với ông L2. Lúc này, C có nói cho các bị cáo N, Q1 và S biết mục đích đến quán cà phê để gặp ông V1 đòi số tiền 25.000.000 đồng mà ông V1 thiếu nợ T.
Khi ông V1 đến, ông L2 trả cho ông V1 số tiền 44.200.000 đồng mà ông L2 thiếu ông V1 trước đó. Trả tiền xong thì ông L2 đi về trước, ông V1 và nhóm của C ở lại nói chuyện với nhau. Sau đó, C kêu ông V1 trả số tiền 25.000.000 đồng trước đó thiếu nợ T, ông V1 nói không thiếu nợ T nên không đồng ý trả tiền thì giữa C và ông Vũ C nhau qua lại. Lúc này, C đứng lên dùng tay trái cặp cổ vật ông V1 ra phía sau làm ông V1 té xuống, rồi lấy cây gậy ba khúc trong túi xách của Nam vũ cho gậy bung ra và chửi ông V1, Q1 đứng lên cầm ghế nhựa giơ lên dọa đánh ông V1, N và S cùng đứng lên hăm doạ nhằm gây áp lực buộc ông V1 trả tiền. Ông V1 kêu C đỡ đứng lên và đồng ý trả tiền cho C. Sau đó, C và ông V1 ra phía trước quán cà phê, ông V1 lấy số tiền 25.000.000 đồng đưa cho C rồi tất cả đi về. Sau khi lấy được tiền, C đưa tất cả cho anh Nguyễn Thái V3, sinh ngày 30/4/2004, ngụ ấp B, xã B, thành phố T, tỉnh Tây Ninh để mang đến đưa cho T. Cùng ngày, ông Trần Thanh V1 đến Công an xã T, huyện C trình báo sự việc. Sau đó, các bị cáo Chung, N, Q1 và S đến cơ quan Công an đầu thú và thừa nhận hành vi phạm tội của mình.
Ngày 03/3/2023, Nguyễn Thái V3 nghe tin nhóm của bị cáo Đặng Tiến C bị Công an mời làm việc, nên đem số tiền 25.000.000 đồng giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh Tây Ninh.
Quá trình điều tra, các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo Trần Hoàng N đã bị kết án về hành vi tái phạm, chưa được xoá án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý và bị cáo Đặng Tiến C đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, lần phạm tội này của các bị cáo Đặng Tiến C và Trần Hoàng N bị coi là tái phạm nguy hiểm, là tình tiết định khung hình phạt.
* Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng:
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, số Imei: 356294017124537 (đã qua sử dụng).
- 01 (một) túi xách màu đen có chữ JINGPIN (đã qua sử dụng).
- 01 (một) cây gậy ba khúc bằng kim loại màu vàng, vỏ nhựa màu đen (đã qua sử dụng).
* Về trách nhiệm dân sự: Ngày 12/3/2023, ông Trần Thanh V1 tử vong do suy hô hấp, viêm phổi nguy kịch do SARSCOV-2, nhiễm trùng đường hô hấp, nhồi máu cơ tim cấp. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh Tây Ninh đã trả lại cho người đại diện theo pháp luật của bị hại Trần Thanh V1 là chị Trần Vũ Thúy V2, sinh năm 2001, ngụ khu phố L, phường L, thị xã H, tỉnh Tây Ninh số tiền 25.000.000 đồng. Đại diện theo pháp luật của bị hại không yêu cầu gì thêm.
Đối với xe ô tô nhãn hiệu Mitsubishi Xpander biển số 70A-245.26 của anh Trần Minh T1 cho bị cáo C mượn, anh T1 không biết C sử dụng xe ô tô để thực hiện hành vi phạm tội nên không xem xét xử lý.
Đối với anh Nguyễn Thái V3 nhận số tiền 25.000.000 đồng từ bị cáo Chung để đưa cho người tên T, anh V3 không biết nguồn gốc số tiền do C chiếm đoạt của ông Trần Thanh V1 nên không xem xét xử lý.
Đối với người tên T kêu bị cáo C lấy tiền nợ của ông Trần Thanh V1, do không xác định được họ tên và địa chỉ cụ thể, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.
Đối với ông Lê Minh L2 giúp cho bị cáo Chung gặp ông Trần Thanh V1, ông L2 không biết mục đích C dùng vũ lực để chiếm đoạt tiền của ông V1 nên không xem xét xử lý.
Tại bản Cáo trạng số: 56/CT-VKSCT ngày 12/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đã truy tố các bị cáo Đặng Tiến C và Trần Hoàng N về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự; truy tố các bị cáo Nguyễn Lê Anh Q1 và Võ Trường S về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố các bị cáo Đặng Tiến C, Trần Hoàng N phạm tội “Cướp tài sản” theo điểm h khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo Nguyễn Lê Anh Q1, Võ Trường S phạm tội “Cướp tài sản” theo khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự.
Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đặng Tiến C từ 08 (tám) năm đến 09 (chín) năm tù giam.
Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Hoàng N từ 07 (bảy) năm đến 08 (tám) năm tù giam.
Căn cứ khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt đối với Bản án số 42/2023/HS-ST ngày 13/7/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Hòa Thành đã tuyên đối với bị cáo Trần Hoàng N.
Áp dụng khoản 1 Điều 168; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Lê Anh Q1 từ 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng đến 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù giam.
Áp dụng khoản 1 Điều 168; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Võ Trường S từ 03 (ba) năm đến 04 (bốn) năm tù giam.
Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận đại diện hợp pháp của bị hại đã nhận lại tiền và không yêu cầu bồi thường gì thêm.
Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa: Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không có ý kiến tranh luận về tội danh và mức hình phạt.
Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiềm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Đặng Tiến C, Trần Hoàng N, Nguyễn Lê Anh Q1, Võ Trường S thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình: Vào ngày 02/3/2023, tại Quán cà phê “Dương cổng chào” thuộc ấp B, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh. Bị cáo Chung dùng tay trái kẹp cổ vật ngã ông V1; bị cáo Q1 dùng ghế nhựa giơ lên dọa đánh ông V1; bị cáo N đứng lên chửi thề và bị cáo S đứng lên nhằm uy hiếp tinh thần của bị hại ông Trần Thanh V1, để chiếm đoạt số tiền 25.000.000 đồng của ông V1 thì bị phát hiện.
[3] Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với bản cáo trạng, lời luận tội của kiểm sát viên và những tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ căn cứ kết luận các bị cáo Đặng Tiến C, Trần Hoàng N, Nguyễn Lê Anh Q1, Võ Trường S phạm tội “Cướp tài sản” theo quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự. Trong đó, bị cáo Trần Hoàng N đã bị kết án về hành vi tái phạm, chưa được xóa án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Bị cáo Đặng Tiến C đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội rất nghiêm trọng do cố ý, lần phạm tội này của các bị cáo Chung và N thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung hình phạt. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành truy tố đối với các bị cáo Đặng Tiến C, Trần Hoàng N về tội “Cướp tài sản” quy định tại điểm h khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo Nguyễn Lê Anh Q1, Võ Trường S về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự, là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng. Hành vi các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản và quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mỗi bị cáo thực hiện.
[5] Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.
- Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình. Sau khi phạm tội các bị cáo Chung, N, Q1, S đã ra đầu thú. Gia đình của các bị cáo Chung và N có công với cách mạng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Xét về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy rằng: Vụ án mang tính chất đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là người thực hành. Bị cáo Chung dùng tay trái kẹp cổ vật ngã ông V1, nên tính chất và mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo C4 là cao nhất trong vụ án. Bị cáo Q1 dùng ghế nhựa giơ lên dọa đánh ông V1, nên tính chất và mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo Q1 là thấp hơn bị cáo Chung. Bị cáo N đứng lên chửi thề nhằm uy hiếp tinh thần của bị hại, nên tính chất và mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo N là thấp so với bị cáo C4 và bị cáo Q1. Bị cáo S đứng lên cùng các bị cáo khác nhằm uy hiếp tinh thần của bị hại, nên tính chất và mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo là thấp nhất so với các bị cáo Chung, Q1 và N.
[7] Về áp dụng hình phạt: Căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ tránh nhiệm hình sự, cùng tính chất, mức độ hành vi phạm tội và vai trò của các bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy, lần phạm tội này bị cáo C4 và bị cáo N thuộc trường hợp bị coi là “tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung hình phạt. Nhưng do tính chất và mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo C4 là cao so với bị cáo N. Nên bị cáo Chung chịu mức hình phạt cao hơn so với bị cáo N. Bị cáo Quốc chịu mức hình phạt thấp hơn bị cáo Chung và bị cáo N, nhưng cao hơn bị cáo S. Bị cáo S chịu mức hình phạt thấp nhất trong vụ án.
[8] Từ các phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy: cần phải xử lý nghiêm, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, phòng ngừa các loại tội phạm về quyền sở hữu tài sản của cá nhân và quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe của con người và cũng có điều kiện để cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.
[9] Về bồi thường thiệt hại: Ghi nhận người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm.
[10] Đối với xe ô tô nhãn hiệu Mitsubishi Xpander biển số 70A-245.26 của anh Trần Minh T1 cho bị cáo Đặng Tiến C mượn, anh T1 không biết bị cáo C4 sử dụng xe ô tô để thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không xem xét xử lý, là căn cứ.
[11] Đối với anh Nguyễn Thái V3 nhận số tiền 25.000.000 đồng từ bị cáo Đặng Tiến C đề đưa cho người tên T, anh V3 không biết nguồn gốc số tiền do bị cáo Chung chiếm đoạt của ông Trần Thanh V1. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không xem xét xử lý, là căn cứ.
[12] Đối với người tên T kêu Đặng Tiến C lấy tiền nợ của ông Trần Thanh VI1, do không xác định được họ tên và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau, là có căn cứ.
[13] Đối với ông Lê Minh L2 giúp cho bị cáo Đặng Tiến C gặp ông Trần Thanh V1, ông L2 không biết mục đích C dùng vũ lực để chiếm đoạt tiền của ông V1. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không xem xét xử lý, là căn cứ. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không xem xét xử lý, là căn cứ.
[14] Về xử lý vật chứng:
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, số Imei: 356294017124537 (đã qua sử dụng), không phải là công cụ dùng vào việc phạm tội, nên trả lại cho bị cáo.
- 01 (một) túi xách màu đen có chữ JINGPIN (đã qua sử dụng); 01 (một) cây gậy ba khúc bằng kim loại màu vàng, vỏ nhựa màu đen (đã qua sử dụng), là công cụ dùng vào việc phạm tội, nhưng không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
[15] Về án phí: Các bị cáo Đặng Tiến C, Trần Hoàng N, Nguyễn Lê Anh Q1, Võ Trường S, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo: Đặng Tiến C, Trần Hoàng N, Nguyễn Lê Anh Q1, Võ Trường S phạm tội “Cướp tài sản”.
1.1 Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đặng Tiến C 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù.
Căn cứ Điều 56 Bộ luật Hình sự, tổng hợp với hình phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù chưa chấp hành của Bản án số 42/2023/HS-ST ngày 13/7/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, và hình phạt 01 (một) năm tù chưa chấp hành của Bản án số 519/2023/HS-PT ngày 02/8/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo Đặng Tiến C phải chấp hành hình phạt chung là 10 (mười) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/3/2023, được khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 17/8/2022 đến ngày 11/01/2023.
1.2 Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Hoàng N 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù.
Căn cứ khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự, tổng hợp với hình phạt 02 (hai) năm tù chưa chấp hành của Bản án số 42/2023/HS-ST ngày 13/7/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh. Bị cáo Trần Hoàng N phải chấp hành hình phạt chung là 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/3/2023.
1.3 Căn cứ khoản 1 Điều 168; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Lê Anh Q1 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/3/2023.
1.4 Căn cứ khoản 1 Điều 168; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Võ Trường S 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/3/2023 đến ngày 09/3/2023.
2. Về bồi thường thiệt hại: Ghi nhận người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ các Điều 46, 47, 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Trả lại cho bị cáo Đặng Tiến C: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, số Imei: 356294017124537 (đã qua sử dụng).
- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) túi xách màu đen có chữ JINGPIN (đã qua sử dụng); 01 (một) cây gậy ba khúc bằng kim loại màu vàng, vỏ nhựa màu đen (đã qua sử dụng).
(Các vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đang quản lý).
4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí T2.
- Các bị cáo Đặng Tiến C, Trần Hoàng N, Nguyễn Lê Anh Q1, Võ Trường S, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho các bị cáo biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh để xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người đại diện hợp pháp của bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội cướp tài sản số 81/2023/HS-ST
Số hiệu: | 81/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về