Bản án về tội cướp tài sản số 63/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 63/2023/HS-PT NGÀY 12/12/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 12 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 101/2023/TLPT-HS ngày 03 tháng 11 năm 2023 do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 89/2023/HS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.

Bị cáo không kháng cáo nhưng bị kháng nghị:

Trần Văn Đ, sinh năm 1977 tại Nam Định; nơi cư trú: Xóm T, xã G, huyện G, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn L và bà Trần Thị T; có vợ Doãn Thị H và 03 con, lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 25 tháng 7 năm 2023 đến ngày 03 tháng 8 năm 2023 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Bị hại không kháng cáo và không bị kháng cáo, không bị kháng nghị: Anh Mai Thế Q, sinh năm 1992; nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Doãn Thị H, sinh năm 1979; nơi cư trú: Xóm T, xã G, huyện G, tỉnh Nam Định; có mặt.

+ Anh Trần Văn T, sinh năm 1990; nơi cư trú: Xóm T, xã G, huyện G, tỉnh Nam Định; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 23/7/2023, Trần Văn Đ điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade BKS: 18G1-255... đi trên đường ĐH10 theo hướng xã Thanh Tân, huyện Thanh Liêm ra Quốc lộ 1A. Khi đi đến địa bàn thôn 1 Tâng, xã Thanh Hương, huyện Thanh Liêm, Đ nhìn thấy anh Mai Thế Q đang ngồi ở mép đường ĐH10 và sử dụng điện thoại di động, Đ nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại nên điều khiển xe mô tô đến gần anh Q và hỏi mượn điện thoại di động của anh Q để gọi cho bạn, anh Q đồng ý; Đ tự nghĩ ra số điện thoại để đọc cho anh Q bấm số, khi điện thoại có chuông, Đ cầm điện thoại giả vờ nói chuyện khoảng 3 phút để tìm cơ hội chiếm đoạt, do có người đi đường gần đó nên Đ đưa lại chiếc điện thoại cho anh Q; anh Q cầm điện thoại đi khoảng 7 đến 8m, Đ liền điều khiển xe mô tô quay lại, dựng xe cạnh anh Q và tiếp tục hỏi mượn điện thoại như lần trước. Khi thấy anh Q không để ý, Đ xuống xe dùng hai tay đẩy mạnh vào ngực anh Q làm anh Q ngã ngửa xuống mương nước cạnh đường ĐH10, Đ cầm theo điện thoại ngồi lên xe mô tô, điều khiển xe chạy nhanh ra hướng Quốc lộ 1A và đi về nhà. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày Đ tháo sim có số thuê bao 0387492… lắp trong điện thoại ra vứt đi; sau đó, mang chiếc điện thoại di động đã chiếm đoạt được của anh Q đến cửa hàng mua bán điện thoại N ở Xóm T, xã G, huyện G, tỉnh Nam Định bán cho anh Trần Văn T lấy 1.650.000 đồng, tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 24/7/2023, anh Mai Thế Q đến Công an xã Thanh Hương trình báo về nội dung sự việc, Công an xã Thanh Hương tiến hành xác minh và chuyển hồ sơ tài liệu đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Liêm để giải quyết theo thẩm quyền. Đến ngày 25/7/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Liêm tiến hành tạm giữ Trần Văn Đ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Vật chứng, tài sản thu giữ gồm: 01 xe mô tô BKS: 18G1-255... kèm theo 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Trần Văn Đ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A03S do Trần Văn Đ giao nộp; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A57 màu đen không lắp sim do anh Trần Văn T tự nguyện giao nộp. Đối với chiếc sim điện thoại số thuê bao 0387492… do Đ đã vứt đi, không xác định được vị trí nên không có căn cứ để truy tìm, thu giữ; đồng thời, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Liêm tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Văn Đ nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 37/KL-HĐĐGTS ngày 31/7/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Thanh Liêm kết luận: “Giá trị của 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A57, màu đen, số IMEI1: 867950064887639; số IMEI1: 867950064887621 đã qua sử dụng tại thời điểm định giá có giá trị 3.100.000 đồng. 01 sim điện thoại có số thuê bao 0387492… đã qua sử dụng tại thời điểm định giá có giá trị 50.000 đồng”.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 41/KL-HĐĐGTS ngày 14/8/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Thanh Liêm kết luận: “Xe mô tô nhãn hiệu Air Blade BKS: 18G1-255..., số khung RLHJF630XFZ369687, số máy JF63E1369710, đăng ký lần đầu ngày 22/4/2016 tại thời điểm định giá có giá trị 15.500.000 đồng”.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 89/2023/HS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam quyết định: Căn cứ vào khoản 1, khoản 6 Điều 168, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 2 Điều 35, Điều 38 và điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các Điều 106; 136; 329; 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố bị cáo Trần Văn Đ phạm tội “Cướp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Văn Đ 4 (Bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (25/7/2023).

Phạt bổ sung bị cáo Trần Văn Đ 10.000.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước; đồng thời, tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 xe môtô BKS: 18G1-255..., kèm theo Giấy đăng ký mô tô xe máy; trả lại cho Trần Văn Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A03S. Ngoài ra, còn buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 06 tháng 10 năm 2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 02/QĐ-VKS; kháng nghị một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 89/2023/HS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam về phần quyết định xử lý vật chứng. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng sửa bản án hình sự sơ thẩm, tuyên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước ½ trị giá chiếc xe mô tô và trả lại cho chị Doãn Thị H ½ trị giá chiếc xe mô tô Biển kiểm soát 18G1-255....

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam giữ nguyên nội dung kháng nghị và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm d khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự; chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, sửa bản án sơ thẩm theo hướng tuyên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước ½ trị giá chiếc xe mô tô và trả lại cho chị Doãn Thị H ½ trị giá chiếc xe mô tô Biển kiểm soát 18G1-255....

Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Chị Doãn Thị H) nhất trí với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam và không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại ½ trị giá chiếc xe mô tô như quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về nội dung kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam trong thời hạn luật định, Quyết định kháng nghị thể hiện đầy đủ nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 336 của Bộ luật Tố tụng hình sự và hợp lệ cần được cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Văn Đ thừa nhận khoảng 17 giờ ngày 23 tháng 7 năm 2023, tại đoạn đường ĐH10 thuộc địa phận thôn 1 Tâng, xã Thanh Hương, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, Trần Văn Đ mượn chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A57, bên trong lắp sim số thuê bao 0387492… có tổng trị giá 3.150.000 đồng của anh Mai Thế Q; sau đó, Trần Văn Đ dùng hai tay đẩy anh Q ngã xuống mương nước cạnh đường ĐH10 làm cho anh Q không thể chống cự được và chiếm đoạt chiếc điện thoại của anh Q rồi đi xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade Biển kiểm soát 18G1-255... đến cửa hàng mua bán điện thoại N tại Xóm T, xã G, huyện G, tỉnh Nam Định bán cho anh Trần Văn T được 1.650.000 đồng và tiêu xài cá nhân. Cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Trần Văn Đ 04 năm tù về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 168 của Bộ luật Hình sự là đúng người đúng tội. Phần hình phạt chính không bị kháng cáo, kháng nghị và có hiệu lực pháp luật nên cấp phúc thẩm không xem xét.

[3] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, Hội đồng xét xử thấy: Cấp sơ thẩm xác định chiếc xe mô tô Biển kiểm soát 18G1-255... là tài sản chung của vợ chồng bị cáo là chính xác; việc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam kháng nghị cho rằng cấp sơ thẩm tuyên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước toàn bộ giá trị chiếc xe mô tô là vi phạm quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 33 của Luật Hôn nhân và gia đình; các Điều 213, 217, 218 của Bộ luật Dân sự. Bản thân chị Doãn Thị H không có lỗi trong việc bị cáo Trần Văn Đ sử dụng xe mô tô để làm phương tiện phạm tội. Cấp sơ thẩm tịch thu toàn bộ chiếc xe mô tô Biển kiểm soát 18G1-255... đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của chị Doãn Thị H.

Mặc dù, chị Doãn Thị H không có lỗi trong việc bị cáo Trần Văn Đ sử dụng tài sản chung của vợ chồng để làm phương tiện, thực hiện hành vi phạm tội nhưng bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và phải tự chịu trách nhiệm với hành vi vi phạm pháp luật mà bị cáo đã gây ra. Cấp sơ thẩm tịch thu nộp ngân sách Nhà nước đối với chiếc xe mô tô Biển kiểm soát 18G1-255... là hoàn toàn phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Nếu chị Doãn Thị H yêu cầu bồi thường thiệt hại thì có quyền khởi kiện bị cáo Trần Văn Đ bằng một vụ án dân sự vẫn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chị Doãn Thị H.

Từ phân tích trên, không có căn cứ để chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.

Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều không phải chịu.

Các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 89/2023/HS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam về phần xử lý vật chứng.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 (Một) xe mô tô Biển kiểm soát: 18G- 255… kèm theo Giấy đăng ký mô tô xe máy; trả lại cho Trần Văn Đ 01 (Một) điện thoại di động nhãn nhiệu Samsung Galaxy A03S.

Tình trạng vật chứng như trong Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 13 tháng 9 năm 2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.

Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều không phải chịu.

Các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 63/2023/HS-PT

Số hiệu:63/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về