Bản án về tội cướp tài sản số 40/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ NINH, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 40/2024/HS-ST NGÀY 25/09/2024 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2024/TLST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2024/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2024 đối với bị cáo:

Nguyễn T, sinh ngày 01 tháng 01 năm 2001 tại Quảng Nam. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: thôn T, xã T, huyện P, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn B và bà Trần Thị H; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/4/2024, chuyển tạm giam ngày 04/5/2024, có mặt.

- Bị hại: Ông Nguyễn B, sinh năm 1993. Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện P, tỉnh Quảng Nam, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ông Nguyên B là cha ruột của Nguyên T. Vào ngày 21/4/2024, ông B bán 02 con bo cho Nguy ễn Thị N với số tiền 21.500.000 đồng, bà N đưa trước tiền mặt cho ông B số tiền 15.000.000 đồng. Sau đó, ông B dùng số tiền này đi mua vật dụng trong nhà còn lại số tiền 12.500.000 đồng. Đên khoang 20 giờ 30 cùng ngày, T biết việc ông B đang giữ tiền bán bò trong người và yêu cầu ông B đưa tiền cho T, với mục đích lấy tiền bán bò đưa cho mẹ T là bà Trần Thị H (vợ ông Nguyễn B) vì T cho rằng bò này cũng có công nuôi dưỡng của mẹ T nhưng ông B không đưa. Sau đó, T đi xuông bêp nhà mình lây 01 con dao câm trên tay phai đi t ới chô ông Nguyên B (lúc này đang nằm trên võng trong vư ờn nhà , cách nhà khoảng 15m) mục đích là uy hiếp ông B để chiếm đoạt số tiền trên. Khi đên sat vong nơi ông B đang năm, T dùng tay phải cầm dao đưa vào sát ngực ông B, tay trái đè trên ngực ông B. Thấy vậy, ông B vùng vẫy và dùng tay phải chụp lấy phần sống dao làm cho lưỡi dao bị gãy rời khỏi cán. T cầm cán dao vứt đi, ông B cũng vứt lưỡi dao gần đó. Thiêt tiếp tục dùng tay kéo ông B từ trên võng xuống đất và vât nhau v ới ông B. Ông B nằm dưới đất, T đứng khom người và dung hai tay bop cô ông B, lúc này ông B nói: “mi bóp cổ tao là tao chết đó , mi ưng bao nhiêu tiên thi đê tao đưa” , T nói: “tôi không măc lưa ông đâu” rôi tiêp tuc bop cô giăng co vơi ông B. Trong luc vât lôn thi T dùng tay lục soát tui quân lững bên phai cua ông B đang măc, phát hiện bên trong có tiên nhưng được ông B dùng tay phải của mình chặn lại nên T không lấy được tiền.

Tiếp đó, T dùng tay phải nhặt 01 cục gạch (dạng gạch viên 04 lô dung trong xây dưng) có ở gần đó, đánh trúng vào đâu ông B, khiên ông B bị thương, choáng nằm bất động. Lúc này T dùng tay cơi chiếc quân lửng ông B đang mặc ra khỏi người ông B, lục soát túi qu ần lửng và lây h ết số tiền 12.500.000 (mươi hai triêu năm trăm nghìn) đông có trong túi quần bên phải. Sau khi lấy được số tiền, T mang theo số tiền vừa chiếm đoạt được gọi xe Taxi chở đến thanh phô Tam Ky va nghi tai nha nghi Bao Long. Đên khoang 09 giờ 30 ngày 22/4/2024, T đi đon xe khach đi vao thanh phô Hô Chí Minh và đã tiêu xài cá nhân hết số tiền 3.700.000 đồng.

Đến sáng ngay 28/4/2024, Nguyên T đến Công an xã Tam Lãnh đầu thú và khai nhân toàn b ộ hành vi phạm tội c ủa mình , đông thơi giao nôp sô tiên 8.800.000 đồng (số tiên chiếm đoạt còn lại).

Ngày 24/7/2024, Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Nam có Bản giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 455/KLTTCT-TTPY, kết luận tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Nguyễn B tại thời điểm giám định là: 01% (một phần trăm).

Vật chứng tạm giữ:

01 (một) viên gạch 4 lỗ, bị nứt vỡ không rõ hình dạng; 01 (một) lưỡi dao màu đen, lưỡi dao dạng gợn sóng bằng kim loại, kích thước (5 x 22)cm. Tiền Việt Nam:

8.800.000 (tám triệu tám trăm nghìn) đồng.

01 (một) áo khoác vải thun dài tay màu đen; 01 (một) đôi dép lê màu đen, có quai màu xanh; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo V2026, gắn thẻ sim số:

0377105xxx là tài sản của Nguyễn T. 01 (một) quần lửng vải nilon màu đen là tài sản của Nguyễn B.

01 (một) chiếc đầu đọc thẻ nhãn hiệu Micro S7 USB2.0 màu đỏ + chiếc thẻ nhớ màu đen gắn phía sau đầu đọc chuyển theo hồ sơ vụ án.

Vấn đề dân sự: Bị hại Nguyễn B không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì.

Tại Cáo trạng số 40/CT-VKSPN-HS ngày 10/9/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam truy tố bị cáo Nguyễn T về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54 Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn T từ 03 năm, 06 tháng đến 04 năm tù.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy : 01 (một) viên gạch 4 lỗ, bị nứt vỡ không rõ hình dạng; 01 (một) lưỡi dao màu đen, lưỡi dao dạng gợn sóng bằng kim loại, kích thước (5 x 22)cm.

Trả lại cho bị cáo : 01 (một) áo khoác vải thun dài tay màu đen; 01 (một) đôi dép lê màu đen, có quai màu xanh; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo V2026, gắn thẻ sim số: 0377105xxx.

Trả lại cho bị hại : 01 (một) quần lửng vải nilon màu đen. Tiền Việt Nam:

8.800.000 (tám triệu tám trăm nghìn) đồng.

Về dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường nên không đề cập giải quyết.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Xét thấy, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Như vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện là đúng pháp luật.

[2] Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như sau: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 21/4/2024, tại vườn nhà của ông Nguyễn B thuộc thôn T, xã T, huyện P, Nguyễn T có hành vi dùng dao đưa vào vùng ngực ông Nguyễn B để đe doạ, sau đó dùng gạch đánh vào đầu ông Nguyễn B để chiếm đoạt của ông Nguyễn B số tiền 12.500.000 đồng.

[3] Lời khai nhận tội của bị cáo T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố. Đồng thời phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo T dùng dao, gạch là hung khí nguy hiểm tấn công ông Nguyễn B để chiếm đoạt tài sản 12.500.000 đồng. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn T đã phạm tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự như cáo trạng truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Tài sản, sức khoẻ của con người, được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm hại trái pháp luật đối với tài sản, sức khoẻ của người khác đều bị xử lý nghiêm khắc. Bị cáo nhận thức được việc dùng hung khí tấn công cha mình để chiếm đoạt tài sản là trái pháp luật và đạo đức xã hội, ảnh hưởng đến sức khỏe, tinh thần của ông B. Tuy nhiên, xét động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo thì thấy: Bị cáo chiếm đoạt tiền không phải vì cần tiền mà xuất phát từ sự bất bình, khi cha của bị cáo đối xử không tốt với mẹ của bị cáo và tự ý định đoạt, bán tài tài sản chung (02 con bò) nên bị cáo nhất thời phạm tội để giải tỏa sự bất bình đó. Vì vậy, cần áp dụng cho bị cáo một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo.

[5] Xét nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Bị cáo có nhân thân tốt. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo phạm tội lần đầu, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã khắc phục một phần T hại và bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên đủ điều kiện áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xem xét xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thể hiện sự khoan hồng của Nhà nước.

[7] Về dân sự: Bị hại Nguyễn B không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét giải quyết.

[8] Về vật chứng vụ án:

01 (một) viên gạch 4 lỗ, bị nứt vỡ không rõ hình dạng; 01 (một) lưỡi dao màu đen, lưỡi dao dạng gợn sóng bằng kim loại, kích thước (5 x 22)cm. Đây là công cụ, phương tiện phạm tội không có giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy.

01 (một) áo khoác vải thun dài tay màu đen; 01 (một) đôi dép lê màu đen, có quai màu xanh; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo V2026, gắn thẻ sim số:

0377105xxx là tài sản của Nguyễn T, không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo.

01 (một) quần lửng vải nilon màu đen là tài sản của Nguyễn B. Tiền Việt Nam: 8.800.000 (tám triệu tám trăm nghìn) đồng. Đây là tài sản của ông Nguyễn B nên trả lại cho ông B.

[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên! 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn T phạm tội “Cướp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn T 03 (Ba) năm, 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tam giam (ngày 28/4/2024).

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu và tiêu hủy: 01 (một) viên gạch 4 lỗ, bị nứt vỡ không rõ hình dạng; 01 (một) lưỡi dao màu đen, lưỡi dao dạng gợn sóng bằng kim loại, kích thước (5 x 22) cm.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn T : 01 (một) áo khoác vải thun dài tay màu đen; 01 (một) đôi dép lê màu đen, có quai màu xanh; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo V2026, gắn thẻ sim số: 0377105xxx.

Trả lại cho ông Nguyễn B: 01 (một) quần lửng vải nilon màu đen. Tiền Việt Nam: 8.800.000 (tám triệu tám trăm nghìn) đồng (Số tiền tạm giữ trong tài khoản số 3949.0.106xxx9.00000 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Ninh mở tại Kho Bạc Nhà nước huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam theo giấy ủy nhiệm chi của Công an huyện Phú Ninh lập ngày 25/9/2024).

(Các vật chứng trên hiện đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 25/9/2024) Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (25/9/2024); bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 40/2024/HS-ST

Số hiệu:40/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Ninh - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về