Bản án về tội cướp tài sản số 332/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 332/2023/HS-PT NGÀY 26/05/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 59/2023/TLPT-HS ngày 17 tháng 01 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Công Q.

Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 579/2022/HS-ST ngày 09-12-2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo kháng cáo:

Nguyễn Công Q; giới tính: Nam; sinh năm 1997; tại tỉnh: Thừa Thiên Huế; nơi đăng ký thường trú: thôn Kế S, xã Phú D, huyện Phú V, tỉnh Thừa Thiên Huế; chỗ ở: 79/36 đường Cây C, phường Bình Hưng H, quận Bình T, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 08/12; con ông: Nguyễn Văn T và bà Lê Thị H (tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai bà H chết năm 2010); vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/11/2020 (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu: Luật sư Nguyễn Thị Như H – Công ty Luật TNHH Tín A, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

(Trong vụ án bị hại không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập đến phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tối ngày 15/11/2020, sau khi đi uống rượu bia cùng bạn bè xong thì Nguyễn Công Q đi về phòng trọ của mình tại nhà số 79/36 đường Cây C, phường Bình Hưng H, quận Bình T, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi Q đi đến trước nhà số 477 Mã Lò thì gặp anh Nguyễn Văn H cùng hai người bạn của anh H (chưa rõ lai lịch) và xảy ra mâu thuẫn, dẫn đến nhóm của anh H đánh Q nhưng không gây thương tích.

Đến khoảng 05 giờ 30 phút ngày 30/11/2020, Q nhớ lại chuyện bị nhóm anh H đánh mình hôm trước nên Q vào nhà bếp lấy một con dao cán bằng gỗ dài khoảng 10cm, lưỡi dao rộng khoảng 10- 12cm, dài khoảng 30cm (loại dao dùng để chặt thịt, xương dài) đi bộ từ phòng trọ tại địa chỉ nêu trên đến trước nhà số 477E Mã L, phường B, quận B1 (là nhà của ông Đặng Văn T), với mục đích tìm anh Nguyễn Văn H để chém trả thù việc anh H đánh Q vào ngày 15/11/2020.

Khi đến nơi, Q dùng con dao chém vào kính cửa chính nhà ông T làm vỡ hai tấm kính. Lúc này, ông T ở trong nhà gọi điện thoại báo cho anh H và con gái của mình là chị Đặng Thị Phượng biết sự việc. Sau đó, anh H ở nhà tại địa chỉ số 509 đường Mã Lò, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân điều khiển xe mô tô biển số 36M7-xxxx chở chị Phượng đến nhà ông T. Khi đến nơi, anh H dựng xe trước cửa nhà và nhìn thấy Q đang ngồi bên kia đường đối diện nhà ông Đặng Văn T nên anh H và chị Phượng đi bộ đến chỗ Q đang ngồi để nói chuyện thì bị Q cầm dao trên tay phải chém nhiều nhát lên đầu, vai, mặt, tay, chân gây thương tích. Thấy vậy, ông T cầm cây gỗ tròn có đường kính 2,5cm, dài 85cm từ trong nhà chạy ra để đánh giải vây cho anh H thì bị Q dùng dao chém nhiều nhát vào đầu và vai gây thương tích. Lúc này, anh Phạm Chiến Thịnh là bảo vệ dân phố phát hiện sự việc nên chạy đến can ngăn thì Q lấy xe mô tô biển số 36M7- xxxx của anh H có cắm sẵn chìa khóa dựng gần nhà ông T điều khiển trốn thoát về nhà trọ tại địa chỉ số 79/36 Cây Cám, phường Bình Hưng Hòa B, quận Bình Tân. Trên đường đi, Nguyễn Công Q đã vứt bỏ con dao gây án tại bãi rác trên đường Mã Lò (Cơ quan điều tra không thu hồi được). Anh Thịnh nhờ người dân đi đường chở đuổi theo Q và phát hiện Q đang ở bên trong nhà trọ địa chỉ số 79/36 đường Cây Cám nên báo Công an quận Bình Tân đến đưa Q về làm việc.

Riêng ông Đặng Văn T và anh Nguyễn Văn H bị thương được người dân đưa đi cấp cứu. (Bút lục số 136-160).

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Nguyễn Công Q đã khai nhận hành vi phạm tội mình như đã nêu trên (Bút lục số 118-130; 195; 259) Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 271/TgT.21 ngày 05/4/2021 của Trung tâm giám định pháp y Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh đối với ông Đặng Văn T như sau:

- Vết thương đầu vùng đỉnh trái gây đứt da, mẻ bản sọ ngoài kích thước l,7x1,15cm (ảnh 1, 2) - đã được điều trị khâu vết thương, hiện còn sẹo kích thước 3,7 x 0,2cm (ảnh 3) ổn định, có tỉ lệ 08%; Vết thương vai phải gây đứt da, đứt cơ delta, đứt chóp xoay, đứt đầu dài cơ nhị đầu cánh tay và rách bao khớp - đã được phẫu thuật cắt lọc khâu bao khớp, khâu chóp xoay, chưa tái tạo cơ nhị đầu cánh tay, hiện còn sẹo kích thước 10,3 x 0,15cm tại vai phải (ảnh 4, 5), teo và yếu nhẹ tay phải, hạn chế vận động khớp vai một phần (ảnh 6), có tỉ lệ 17%.

- Các thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn tác động mạnh gây ra. Tỉ lệ tổn thương cơ thể gây nên hiện tại là 24% - (Bút lục số 96-100).

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 261/TgT.21 ngày 01/4/2021 của Trung tâm giám định pháp y Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh đối với ông Nguyễn Văn H như sau:

- Bốn vết thương vùng đầu gây đứt da, gãy xương sọ đã được điều trị, hiện còn: 01 sẹo vùng trán trái kích thước 6,5 x 0,1cm (ảnh 1.1), hình ảnh đường mẻ bản ngoài sọ dài 3,3cm (ảnh 2.1; 3.1), ổn định, có tỉ lệ 13%; 01 sẹo vùng trán giữa kích thước 8 x 0,lcm (ảnh 1.2), hình ảnh đường gãy hai bản sọ dài 4,5 cm (ảnh 2.2; 3.2), ổn định, có tỉ lệ 13%; 01 sẹo vùng trán phải kích thước 6,2 x 0,lcm (ảnh 1.3), hình ảnh đường mẻ bản ngoài sọ dài 3,5cm (ảnh 2.3; 3.3), ổn định, có tỉ lệ 13%; 01 sẹo vùng đỉnh sau trái kích thước 2,7 x 0,15 cm (ảnh 4.1), hình ảnh đường gãy hai bản sọ dài 1,1 cm (ảnh 5.1; 6; 7), ổn định, có tỉ lệ 06%.

- Vết thương vùng chẩm gây đứt da, gãy xương sọ, xuất huyết ngoài màng cứng đã được điều trị, hiện còn một sẹo kích thước 4,5 x 0,15cm (ảnh 4.2), hình ảnh đường gãy hai bản sọ dài 4,lcm (ảnh 5.2; 8), ổn định, có tỉ lệ 16%.

- Vết thương vùng dưới bả vai trái gây đứt da, gãy xương sườn 9 đã được điều trị, hiện còn 01 sẹo kích thước 9,5 x (0,l-0,3)cm (ảnh 9.1), hình ảnh gãy xương trên phim X quang (ảnh 10), ổn định, có tỉ lệ 04%.

- Vết thương vùng mặt mu gốc ngón 4, 5 tay trái gây đứt da, đứt gân duỗi ngón 4, 5, lộ sụn khớp, vát một phần sụn xương đã được điều trị lấy bỏ mảnh sụn, khâu gân, hiện còn: 01 sẹo kích thước 6 x 0,lcm (ảnh 11); Hình ảnh mẻ xương trên phim X quang (ảnh 12); Cứng khớp bàn ngón 5, hạn chế một phần vận động khớp bàn ngón 4 và khớp liên đốt ngón 5. Có tỉ lệ 08%.

- 07 vết thương trên do vật sắc, vật sắc nhọn tác động gây ra - Đa vết thương phần mềm đã được điều trị, hiện còn: 01 sẹo vùng trán thái dương phải kích thước 4,3 x 0,1cm (ảnh 13.1), ổn định, có tỉ lệ 01%; 01 sẹo vùng thái dương đỉnh phải kích thước 5,3 x 0, lcm (ảnh 13.2), ổn định, có tỉ lệ 02%; 01 sẹo vùng góc hàm tai trái kích thước 14,2 x 0,lcm (ảnh 14), ổn định, có tỉ lệ 06%; 01 sẹo vùng lưng trên ngang cột sống kích thước 9,2 x (0, l-0,5)cm (ảnh 15), ổn định, có tỉ lệ 02%; 01 sẹo vùng lưng giữa trái kích thước 8 x 0,15cm (ảnh 9.2), ổn định, có tỉ lệ 02%; 01 sẹo vùng mạn sườn kích thước 9 x (0, 1-0,2)cm (ảnh 16), ổn định. có tỉ lệ 02%; 01 sẹo vùng mặt ngoài 1/3 dưới cánh tay phải kích thước 6 x (0,2-0,6)cm (ảnh 17), ổn định, có tỉ lệ 02%; 01 sẹo vùng mặt sau 1/3 trên cẳng tay trái kích thước 3,2 x 0,lcm (ảnh 18), ổn định, có tỉ lệ 01%; 01 sẹo vùng mặt trước trong 1/3 dưới đùi trái kích thước 3,1 x (0,l- 0,3)cm (ảnh 19), ổn định, có tỉ lệ 01%; 01 sẹo vùng mặt ngoài 1/3 trên cẳng chân trái kích thước 4,l x (0,3-0,8)cm (ảnh 20), ổn định, có tỉ lệ 02%; 01 sẹo vùng gót chân trái kích thước 3,5 x (0, l-0,5)cm (ảnh 21), ổn định, có tỉ lệ 01%;

01 sẹo vùng mặt trong 1/3 dưới đùi phải kích thước 12,7 x (0,5-l,5)cm (ảnh 22), ổn định, có tỉ lệ 03%.

Các vết thương trên do vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc tác động gây ra. Tỉ lệ tổn thương cơ thể gây nên hiện tại là 64% - (Bút lục số 86-94).

*Vật chứng vụ án: Đã được liệt kê tại bản thống kê vật chứng đính kèm *Về trách nhiệm dân sự:

- Bị hại Đặng Văn T yêu cầu Q bồi thường tiền điều trị vết thương là 40.000.000 đồng, Q chưa bồi thường (Bút lục số 152-155).

- Bị hại Nguyễn Văn H yêu cầu Q bồi thường tiền điều trị vết thương là 130.000.000 đồng, Q chưa bồi thường (Bút lục số 158-160) Tại bản Cáo trạng số 516/CT-VKS-P2 ngày 19/10/2022, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Nguyễn Công Q để xét xử, về các tội: “Giết người” và “Cướp tài sản” theo các điểm a, n khoản 1 Điều 123 và khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 579/2022/HS-ST ngày 09-12-2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Căn cứ vào các điểm a, n khoản 1 Điều 123; khoản 1 Điều 168 ; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 15 ; Điều 57; Điều 38 và điểm a khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Công Q 15 (mười lăm) năm tù, về tội: “Giết người”; 03 (ba) năm tù, về tội: “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai tội là 18 (mười tám) năm tù. Thời hạn tù tính kể từ ngày 30/11/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 16/12/2022, bị cáo Nguyễn Công Q có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Công Q thừa nhận hành vi phạm tội, chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt về tội giết người và tội cướp tài sản vì bị hại cũng có một phần lỗi do đã đánh bị cáo trước đó 02 tuần; bị cáo có cậu đồng thời cũng là cha nuôi là ông Lê Đức L là người có công với cách mạng; và gia đình bị cáo đã bồi thường xong cho bị hại.

Người bào chữa cho bị cáo là Luật sư Nguyễn Thị Như H phát biểu ý kiến: Thống nhất về tội danh mà bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết bị cáo. Về hình phạt, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ mới là gia đình bị cáo đã bồi thường xong cho bị hại số tiền bản án sơ thẩm tuyên, bị hại có đơn xác nhận đã nhận tiền bồi thường và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra, bị cáo có cậu (đồng thời là cha nuôi) là thương binh. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo phạm tội “Giết người” và “Cướp tài sản” theo điểm a, n khoản 1 Điều 123 và khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, gia đình bị cáo đã khắc phục hậu quả cho bị hại đủ 160.000.000 đồng và bị hại có đơn cam kết không khiếu nại. Ngoài ra, ông Lê Đức L là cậu cũng đồng thời là cha nuôi của bị cáo là người có công với cách mạng và có người thân tham gia cách mạng, được tặng thưởng huân chương. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới tại cấp phúc thẩm. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đối với tội “Giết người” xuống còn 13 năm 6 tháng tù, đồng thời áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo mức án 2 năm 6 tháng đối với tội “Cướp tài sản”, tổng hợp hình phạt chung cho cả 02 tội buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 16 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Công Q thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra công khai tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, với biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, các biên bản tạm giữ đồ vật - tài liệu, khám nghiệm hiện trường, thu giữ dữ liệu hình ảnh trích xuất từ camera; lời khai của bị hại, người làm chứng; bản kết luận giám định về thương tích - kèm bản ảnh; và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Qua đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định như sau:

[1.1] Vào khoảng 05 giờ 30 phút ngày 30/11/2020, tại trước nhà số 477E đường Mã L, phường B, quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Nguyễn Công Q đã có hành vi sử dụng một con dao lưỡi sắc bằng kim loại dài khoảng 30cm (loại dao dùng để chặt xương) để tấn công chém liên tục nhiều nhát vào vùng đỉnh đầu, vai, mặt, tay, chân của anh Nguyễn Văn H, gây thương tích với tỷ lệ thương tật là 64%. Thấy vậy, ông Đặng Văn T (là bố vợ của anh H) cầm một cây gỗ tròn có đường kính 2,5cm, dài 85cm chạy đến giải vây cho anh H thì bị Nguyễn Công Q tiếp tục dùng dao tấn công chém nhiều nhát vào vùng đầu, vai của ông T, gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 24%, rồi lấy xe mô tô biển số 36M7-xxxx của anh H có cắm sẵn chìa khóa dựng gần nhà ông T điều khiển trốn thoát về nhà trọ tại địa chỉ số 79/36 Cây C, phường B2, quận B1 cất giữ.

[1.2] Chỉ vì mâu thuẫn đã xảy ra trước đó nửa tháng, cùng với việc sử dụng ma túy đá, bị cáo đã vô cớ sử dụng hung khí nguy hiểm để tấn công với lực tác động rất mạnh và cường độ liên tục chém nhiều nhát vào vùng trọng yếu của cơ thể của anh H (trong đó, có 05 vết thương vùng đầu và chẩm gây gãy xương sọ, xuất huyết ngoài màng cứng gây nguy hiểm đến tính mạng bị hại); rồi tiếp tục chém nhiều nhát vào vùng đầu, vai của ông T với cường độ tấn công quyết liệt và bỏ mặc cho hậu quả xảy ra, cho thấy ý chí muốn tước đoạt trái phép tính mạng của bị hại. Việc các bị hại không chết là do được cơ quan chuyên môn về y tế cấp cứu, chữa trị kịp thời là nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo.

[1.3] Ngoài ra, liền ngay sau khi bị cáo Nguyễn Công Q dùng hung khí nguy hiểm tấn công làm tê liệt ý chí kháng cự của bị hại, bị cáo đã thực hiện hành vi chiếm đoạt 01 xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo biển số 36M7-xxxx của anh Nguyễn Văn H. Tại bản kết luận định giá tài sản số 5593/KL-HĐĐGTS ngày 19/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: 01 xe ô tô Yamaha Nouvo biển số 36M7-xxxx trị giá 2.945.000 đồng. Bị cáo cho rằng do bị cáo hoảng loạn nên mới lấy xe mô tô có cắm sẵn chìa khóa của bị hại để bỏ chạy khỏi hiện trường và đi đầu thú, không có ý định chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, hồ sơ vụ án thể hiện, sau khi lấy xe của bị hại, bị cáo đã mang về phòng trọ cất giữ, cho đến khi Công an phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân tiến hành xác minh, thu giữ xe mô tô nêu trên tại phòng trọ của bị cáo trong khoảng thời gian từ lúc 10 giờ 20 phút đến lúc 10 giờ 50 phút ngày 30/11/2020 (bút lục 106, 115) thì mới thu hồi được tài sản, không có việc bị cáo đi đầu thú, nên khai nhận của bị cáo là không có cơ sở.

[1.4] Với các hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Công Q phạm tội “Giết người” theo quy định tại các điểm a, n khoản 1 Điều 123 và tội “Cướp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2] Xét thấy, hành vi của bị cáo Q là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, thể hiện tính côn đồ, coi thường pháp luật; không những xâm hại đến tính mạng của bị hại mà còn xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; gây tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương; vì vậy cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Q.

[3.1] Bị cáo phạm tội “Giết người” với 02 tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự. Việc thực hiện tội phạm của bị cáo là rất quyết liệt, thể hiện qua việc chém nhiều nhát liên tục vào người của bị hại, cho thấy sự bất chấp pháp luật và coi thường tính mạng của người khác. Liền ngay sau khi thực hiện hành vi giết người, bị cáo tiếp tục thực hiện một hành vi phạm tội khác. Do đó, về hình phạt đặt ra đối với bị cáo phải nghiêm, cần có một thời gian cách ly khỏi xã hội đủ dài mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo nói riêng và công tác đấu tranh, phòng ngừa chung.

[3.2] Khi lượng hình, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ như bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho các bị hại và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo (đối với tội “Giết người”), quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đồng thời xác định tính chất hành vi phạm tội “Giết người” của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt, từ đó xử phạt bị cáo Nguyễn Công Q 15 năm tù về tội “Giết người” và 03 năm tù về tội “Cướp tài sản”, tổng hợp hình phạt của hai tội là 18 năm tù, là phù hợp với quy định của pháp luật, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện. Tại cấp phúc thẩm, gia đình bị cáo có xuất trình giấy cam kết về việc bồi thường thiệt hại thể hiện bị hại đã nhận đủ tiền bồi thường nhưng tình tiết giảm nhẹ này đã được cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo. Ngoài ra, bị cáo còn xuất trình đơn xác nhận về việc ông Lê Đức L là cậu đồng thời cũng là cha nuôi của bị cáo là người có công với cách mạng nhưng tình tiết này không làm thay đổi đáng kể tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện. Hơn nữa, Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết định khung tặng nặng trách nhiệm hình sự “Giết người mà ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng” quy dịnh tại điểm e khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự đối với bị cáo là có lợi cho bị cáo. Do đó, kháng cáo của bị cáo là không có cơ sở chấp nhận.

[4] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo cũng như đề nghị của người bào chữa, và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Lập luận này cũng là căn cứ để không chấp nhận đề nghị sửa một phần bản án sơ thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa.

[5] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Ngoài ra, tại lý lịch bị can (BL 134) và qua phần thẩm tra công khai tại phiên tòa phúc thẩm thể hiện, bị cáo có cha tên Nguyễn Văn T. Tuy nhiên, tại phần lý lịch của bị cáo tại bản án sơ thẩm lại thể hiện cha bị cáo tên Nguyễn Văn T1 là chưa đúng nên cần sửa lại cho đúng với lý lịch tư pháp của bị cáo.

[7] Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Nguyễn Công Q phải chịu theo quy định pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Công Q. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 579/2022/HS-ST ngày 09-12-2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Tuyên xử:

[1] Căn cứ vào các điểm a, n khoản 1 Điều 123; khoản 1 Điều 168 ; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 15 ; Điều 57; Điều 38 và điểm a khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Công Q 15 (mười lăm) năm tù, về tội: “Giết người”; 03 (ba) năm tù, về tội: “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai tội là 18 (mười tám) năm tù. Thời hạn tù tính kể từ ngày 30/11/2020.

Tiếp tục giam bị cáo Nguyễn Công Q để đảm bảo thi hành án.

[2] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[3] Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Nguyễn Công Q phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 332/2023/HS-PT

Số hiệu:332/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về