TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 31/2022/HS-PT NGÀY 24/01/2022 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 387/2021/HSPT ngày 21/12/2021 đối với bị cáo Nguyễn Minh H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 449/2021/HS-ST ngày 12/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Minh H; giới tính: nam; sinh năm: 1974, tại tỉnh Y; Hộ khẩu thường trú: tổ E, thị trấn B, huyện C, tỉnh Y; chỗ ở: nhà trọ không số, khu phố D, phường A, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: bảo vệ; con ông Nguyễn Minh Đ (chết) và bà Mác Thị L (1950); chưa có vợ, con; Tiền sự: không;
Tiền án:
- Năm 1997, bị Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố N xử phạt 07 năm tù về tội “Cướp tài sản của công dân” và “Trộm cắp tài sản của công dân”, theo Bản án số 03 ngày 06/01/1997;
- Năm 2004, Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh L xử phạt 08 năm tù về tội “Cướp tài sản”, theo Bản án sơ thẩm số 125 ngày 17/12/2004; Bị cáo kháng cáo nên ngày 31/01/2005, Tòa án nhân dân tỉnh L xử phạt 08 năm tù về tội “Cướp tài sản”, theo Bản án phúc thẩm số 04/2005/HSPT.
- Năm 2006, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 10 năm tù về tội “Cướp tài sản” và “Trộm cắp tài sản”.
- Ngày 22/02/2004, phạm tội “Dâm ô đối với trẻ em”, sau đó bỏ trốn bị truy nã. Ngày 06/6/2007, Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh B xử phạt 04 năm tù về tội “Dâm ô đối với trẻ em” và “Trốn khỏi nơi giam giữ”, theo Bản án số 19 ngày 06/6/2007. Tổng hợp với hình phạt tại Bản án số 144 ngày 17/02/2006 của Tòa án nhân dân thành phố H, buộc chấp hành hình phạt chung của 03 bản án là 21 năm 10 tháng 20 ngày tù, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/10/2019.
Nhân thân: Năm 1993, Tòa án nhân dân quận H, thành phố N xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”, theo Bản án số 315 ngày 27/8/1993;
Bị tạm giam từ ngày 09/10/2020 (có mặt).
Ngoài ra, trong vụ án còn có bị hại Hoàng Thị H1 nhưng không có đơn kháng cáo nên Tòa án cấp phúc thẩm không triệu tập tham gia phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ ngày 04/10/2020, Nguyễn Minh H điều khiển xe mô tô biển số 59P1-295.16 đến tháp A2, chung cư I, khu phố D, phường A, quận B (nay là thành phố T) để thăm người quen. Khi đi đến cầu thang bộ giữa lầu 6 và lầu 7 thì gặp bà Hoàng Thị H1 đang dọn vệ sinh tại đây, Nguyễn Minh H đi theo nói chuyện với bà Hoàng Thị H1. Đến cầu thang bộ lầu 7, khi bà Hoàng Thị H1 đang quay lưng lau cửa kính thì Nguyễn Minh H đứng phía sau, bất ngờ dùng tay bóp cổ bà Hoàng Thị H1 rồi đe dọa “Tao giết mày”, bà Hoàng Thị H1 vùng vẫy thì Nguyễn Minh H và bà Hoàng Thị H1 ngã xuống cầu thang gần lầu 6. Lúc này, bà Hoàng Thị H1 van xin thì Nguyễn Minh H dùng tay phải bóp cổ bà Hoàng Thị H1, tay trái giật đứt sợi dây chuyền trên cổ bà Hoàng Thị H1, đồng thời đe dọa “Còn bao nhiêu tiền đưa cho tao”, hoảng sợ bà Hoàng Thị H1 lấy số tiền 400.000 đồng từ trong túi quần bên phải ra đưa cho Nguyễn Minh H. Sau đó, Nguyễn Minh H theo lối cầu thang bộ đi ra ngoài lấy xe tẩu thoát, đi về nhà trọ không số, khu phố D, phường A cất giấu sợi dây chuyền, số tiền chiếm đoạt được thì Nguyễn Minh H tiêu xài còn lại 350.000 đồng. Sau khi sự việc xảy ra, bà Hoàng Thị H1 báo cho lễ tân của chung cư biết sự việc; đến ngày 08/10/2020, bà Hoàng Thị H1 đến Công an phường A trình báo sự việc.
Qua truy xét, ngày 09/10/2020, Tổ đặc nhiệm Đội Cảnh sát hình sự - Công an quận B (nay là thành phố T) phát hiện Nguyễn Minh H có đặc điểm nghi vấn nên đưa Nguyễn Minh H về làm việc. Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Minh H khai nhận toàn bộ hành vi cướp tài sản của bà Hoàng Thị H1 tại chung cư I vào ngày 04/10/2020 như đã nêu trên. Qua khám xét chỗ trọ của Nguyễn Minh H tại nhà trọ không số, khu phố D, phường A thu giữ sợi dây chuyền mà Nguyễn Minh H đã chiếm đoạt của bà Hoàng Thị H1.
Tại Kết luận định giá tài sản số 282 ngày 30/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân quận B (nay là thành phố T) kết luận: 01 sợi dây chuyền bằng vàng 18k dài 47,5cm, trọng lượng 02 chỉ 01 phân có trị giá 5.985.000 đồng. Tổng trị giá tài sản Nguyễn Minh H đã chiếm đoạt của chị Hoàng Thị H1 là 6.3865.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 449/2021/HS-ST ngày 12/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Cướp tài sản”.
2. Về hình phạt: Căn cứ vào điểm h khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H: 09 (chín) năm tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 09/10/2020.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, quyền và thời hạn kháng cáo.
Sau khi xử sơ thẩm, ngày 22/11/2021, bị cáo Nguyễn Minh H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Nguyễn Minh H trình bày: xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo đã giao nộp số tiền chiếm đoạt được để giao trả cho bà Hoàng Thị H1.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu: Với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của bị cáo Nguyễn Minh H tại phiên tòa phúc thẩm, nhận thấy bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng người, đúng tội và mức án phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không bổ sung được tình tiết giảm nhẹ mới, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Minh H, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố T. Tuy nhiên, kiến nghị cấp sơ thẩm xem xét về tiền án và nhân thân của bị cáo chính xác.
Bị cáo Nguyễn Minh H không có ý kiến tranh luận và trong lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định là hợp lệ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp phúc thẩm.
[2] Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Minh H tại phiên tòa cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định:
Khoảng 14 giờ ngày 04/10/2020, tại thang bộ lầu 6 và lầu 7 tháp A2, chung cư I, khu phố D, phường A, quận B (nay là thành phố T), Nguyễn Minh H đã có hành vi dùng vũ lực cướp 01 sợi dây chuyền và 400.000 đồng của bà Hoàng Thị H1. Ngày 08/10/2020, bà Hoàng Thị H1 đến Công an phường An Phú trình báo sự việc. Qua truy xét, ngày 09/10/2020, Tổ đặc nhiệm Đội Cảnh sát hình sự - Công an quận B (nay là thành phố T) phát hiện Nguyễn Minh H có đặc điểm nghi vấn nên đưa Nguyễn Minh H về làm việc. Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Minh H khai nhận toàn bộ hành vi cướp tài sản của bà Hoàng Thị H1 như đã nêu trên. Tổng giá trị tài sản bị cáo đã chiếm đoạt là 6.385.000 đồng - theo Kết luận định giá tài sản số 282 ngày 30/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân quận B (nay là thành phố T).
Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Minh H đã phạm vào tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tòa án nhân dân thành phố T xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H theo tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Minh H: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo. Hội đồng xét xử xét thấy như sau: Khi lượng hình Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, để áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo; tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lầnp bị kết án và chưa được xóa án tích, nhưng tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Xét thấy mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo là phù hợp và tại phiên tòa hôm nay bị cáo cũng không cung cấp được tài liệu bổ sung nào khác, nên kháng cáo của bị cáo không có cơ sở để chấp nhận. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Minh H và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tuy nhiên, về nhân thân và tiền án của bị cáo, cấp sơ thẩm xác định chưa chính xác, nên cần lưu ý rút kinh nghiệm.
[4] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.
[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Minh H, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 449/2021/HS-ST ngày 12/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H 09 (chín) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 09/10/2020.
Bị cáo Nguyễn Minh H phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cướp tài sản số 31/2022/HS-PT
Số hiệu: | 31/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về