TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 275/2022/HS-ST NGÀY 12/12/2022 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 12 tháng 12 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 216/2022/TLST-HS ngày 30 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 273/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:
1. Thạch Khánh L (tên gọi khác: Thạch Khánh L) sinh năm 1989 tại tỉnh Sóc Trăng; hộ khẩu thường trú: ấp T, xã Ph, Hện Ch, tỉnh S; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 3/12; dân tộc: Khmer; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thạch M, sinh năm 1950 và bà La Thị Kim H sinh năm 1952; bị cáo chưa có vợ con; tiền án:
Ngày 29/4/2011, bị Tòa án nhân dân Hện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 72/2011/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/12/2011.
Ngày 31/12/2014, bị Tòa án nhân dân thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 70/2014/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/02/2017, chưa chấp hành trách nhiệm dân sự.
Tiền sự: không; bị bắt khẩn cấp ngày 19 tháng 01 năm 2022, sau đó bị tạm giữ, tạm giam cho đến nay; có mặt.
2. Trương Ngọc Q sinh năm 1999 tại Thành phố H; hộ khẩu thường trú: số 90/584B, đường Ng, Phường 3, quận G, Thành phố H; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Ngọc S, sinh năm 1967 và bà Thái Thị M sinh năm 1971; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt khẩn cấp ngày 19 tháng 01 năm 2022, sau đó bị tạm giữ, tạm giam cho đến nay; có mặt.
3. Trương Ngọc T sinh năm 2002 tại Thành phố H; hộ khẩu thường trú: số 90/584B, đường Ng, Phường 3, quận G, Thành phố H; tạm trú: ấp B, xã T, Hện V, tỉnh Đ; nghề nghiệp: làm thuê; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Ngọc S, sinh năm 1967 và bà Thái Thị Mai sinh năm 1971; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: không; tiền sự: không; bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
- Bị hại: Ông Lê Duy Ph, sinh năm 2002; thường trú: ấp Tr, xã Th, Hện Ch, tỉnh H, địa chỉ: số 115/2 đường 11, phường Tr, thành phố Th, Thành phố H; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Công ty TNHH ô tô xe máy H. địa chỉ: khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh B. Người đại diện hợp pháp: Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1988; địa chỉ: thôn B, xã B, Hện L, tỉnh B; vắng mặt.
2. Công ty TNHH C, địa chỉ: 458/60/9, đường H, phường B, Quận X, Thành phố H. Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Thanh G, sinh năm 1993; địa chỉ: số 110, Lô B V, CC L, Phường X, Quận X, Thành phố H; có mặt.
Người làm chứng:
- Bà Nguyễn Thị Kim D, ông Lưu Quốc H, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trương Ngọc Q và Trương Ngọc T là anh em ruột; trong thời gian làm thuê cho các công trình xây dựng tại Hện V, tỉnh Đồng Nai thì cả hai quen biết với Thạch Khánh L.
Khoảng đầu năm 2022, L nảy sinh ý định giả danh lực lượng Công an để thực hiện hành vi chiếm đoạt thuốc lá của người khác bán lấy tiền tiêu xài. Ngày 15/01/2022, L sử dụng điện thoại di động lên mạng xã hội Facebook vào nhóm “Nhóm thuốc lá 555” để tìm người đặt hàng. L đã liên hệ với tài khoản Facebook “Ngọc N” đặt hàng 115 cây thuốc lá nhãn hiệu 555 (gồm 75 cây thuốc lá của Anh và 40 cây thuốc lá Việt), hẹn giao hàng vào chiều ngày 16/01/2022 tại xã Bạch Đằng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
Sau khi đặt hàng, L gọi điện thoại rủ Q và T tham gia cùng với L thì cả hai đều đồng ý. Chiều ngày 16/01/2022, L gọi điện thoại kêu T và Q đến nhà trọ của L tại xã Thạnh Phú, Hện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai để bàn bạc kế hoạch; L phân công cho T là người đi nhận hàng, trong lúc T kiểm tra hàng thì L và Q sẽ đóng giả lực lượng Công an đến để khống chế người giao hàng rồi mang thuốc lá đi. Sau khi phân công xong, cả ba di cHển sang địa bàn xã Bạch Đằng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương để nhận hàng. Trên đường đi, L cho rằng T không có kỹ năng chạy xe nên phân công lại cho Q làm người nhận hàng, còn T đi chung với L. Q đi một mình bằng xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh (không rõ biển số) mượn của một người bạn tên K (không rõ lai lịch), còn T chở L bằng xe mô tô biển số 77E1-X, nhãn hiệu Honda Winner X, màu bạc- đen-đỏ của T. L đưa cho T một cây kìm chích điện màu đen và dặn T dùng để đe dọa, khống chế nhân viên giao hàng.
Đến khoảng 17 giờ 45 phút cùng ngày, khi người giao hàng là Lê Duy Ph đến nơi thì L đưa điện thoại Iphone 13 Pro Max của mình cho Q để Q đi nhận hàng. Q dẫn Ph đến một khu đất trống không có người gần đó, sau khi kiểm tra hàng xong, Q và Ph chất hết các thùng giấy dựng thuốc lá sang xe Wave của Q. Lúc này, T điều khiển xe mô tô biển số 77E1-X chở L chạy tới. T bước xuống xe, hỏi Q và Ph “tụi bây làm gì ở đây?" rồi đi lòng vòng quanh xe Wave của Q, T xé thùng giấy thấy bên trong có thuốc lá rồi hỏi Q và Ph “tụi bây buôn thuốc lá lậu phải không?”. Đồng thời T lấy cây kìm chích điện ra cầm trên tay rồi bấm công tắc làm lóe tia điện, kêu “tách tách”, quơ qua qua lại kim chích điện hướng về phía của Q và Ph và yêu cầu Q và Ph ngồi xuống. Ph hoảng sợ nên ngồi xuống theo lời của T, không dám chống cự, còn Q đã biết trước nên cũng giả vờ hoảng sợ ngồi xuống. Lúc này, L đi lại hỏi Ph là người chở thuê hay chủ hàng thì Ph nói là người chở thuê. L giả vờ kêu Ph đưa bóp để kiểm tra giấy tờ rồi trả lại cho Ph. Sau đó, theo kế hoạch đã bàn bạc từ trước, L giả vờ kêu T chạy xe Wave màu xanh của Q về trụ sở công an, còn L chở Q bằng xe Winner X, nhưng thực chất cả ba người đều đi về nhà của L. Ph đuổi theo sau nhưng mất dấu nhóm của L. Sau đó, Ph biết mình đã bị nhóm của L chiếm đoạt số thuốc lá nên đến Công an xã Bạch Đằng trình báo sự việc.
Sau khi về đến nhà của L, cả ba kiểm tra lại số thuốc lá vừa chiếm đoạt được của Ph có tổng cộng 114 cây thuốc lá (mỗi cây có 10 bao thuốc lá), gồm 74 cây thuốc lá nhãn hiệu 555 chỉ có chữ bằng tiếng Anh (gọi là ba số Anh) và 40 cây thuốc lá nhãn hiệu 555 có dòng chữ cảnh báo bằng tiếng Việt (gọi là ba số Việt). L chia cho Q và T 49 cây thuốc lá Anh và 25 cây thuốc lá Việt, số còn lại là của L. Q và T cùng chở số thuốc lá được chia về nhà trọ Q ở là nhà trọ Trần Đức An, ấp 4, xã Thạnh Phú, Hện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai để cất giấu, trên đường đi thì cả hai làm rơi mất một số cây thuốc lá nhưng không kiểm tra lại là mất bao nhiêu cây. Lo sợ bị phát hiện nên Q gửi hết số thuốc lá còn lại tại phòng trọ của bà Nguyễn Thị Kim D, sống cùng nhà trọ.
Những ngày sau đó, L và Q mang bán lẻ một số cây thuốc lá cho một số người không rõ nhân thân lai lịch để lấy tiền tiêu xài. L thu được 1.500.000 đồng. Q thu được 2.200.000 đồng, Q chia cho T 1.100.000 đồng, giữ lại 1.100.000 đồng.
Đến ngày 18/01/2022, L tiếp tục lên mạng xã hội Facebook đặt mua 125 cây thuốc lá các loại của một người khác không rõ lai lịch với mục đích và thủ đoạn chiếm đoạt thuốc lá như ngày 16/01/2022 và rủ T cùng Q tham gia thì cả hai đều đồng ý, phân công vai trò cũng như lần trước. Cũng trong ngày 18/01/2022, Lê Duy Ph dẫn Lê Quốc H đến địa bàn xã Bạch Đằng để chỉ cho H hiện trường nơi Ph bị chiếm đoạt thuốc lá. Đến khoảng 14 giờ 00 phút cùng ngày, cả hai đến địa bàn xã Bạch Đằng và nghỉ chân tại quán cà phê Cô Ba gần cầu Bạch Đằng. Tại đây, sau khi nghe H và Ph nói cHện thì có một người nam tên Đông (không rõ lai lịch) ngỏ ý muốn đi cùng với H và Ph thì được cả hai đồng ý.
Sau đó, Ph dẫn cả nhóm đến khu đất trống thì phát hiện Q đang ở tại đây cùng với một người giao hàng (không rõ lai lịch) nên Ph, H, Đông giữ Q lại. Lúc này, T chở L đến nơi nhưng thấy sự việc đã bị phát hiện nên bỏ chạy. Sau đó, Ph và H trình báo cơ quan Công an, còn Đông bỏ đi đâu không rõ. T và L bỏ chạy được một lúc thì quay lại khu đất trống nhưng không thấy ai, chỉ thấy xe Wave màu xanh của Q nên T chạy xe Wave về nhà trọ rồi trả xe cho bạn của Q. Sau đó, L và T bị Công an xã Bạch Đằng mời về trụ sở để làm việc. Qua làm việc, L, Q, T đều khai nhận hành vi dùng kìm chích điện đe dọa chiếm đoạt toàn bộ thuốc lá của Lê Duy Ph đang làm nhiệm vụ giao hàng.
Vật chứng thu giữ:
23 cây thuốc lá nhãn hiệu “No.555. AlbertLevy”, sản xuất: Anh; 09 cây thuốc lá nhãn hiệu “No.555 AlbertLevy”, trên bao có dán tem thuốc là do Việt Nam sản xuất, 01 còng số 8; 01 CMND tên Thạch Khánh L, 01 chiếc kìm chích điện màu đen; 01 điện thoại Iphone 12 Pro Max, thu giữ của Thạch Khánh L;
07 cây thuốc lá nhãn hiệu "No 555 AlbertLevy”, sản xuất: Anh và 07 cây thuốc lá nhãn hiệu "No.555 AlbertLevy", trên bao có dán tem thuốc lá do Việt Nam sản xuất của Q gửi tại phòng trọ của bà Nguyễn Thị Kim D đã giao nộp;
01 xe mô tô biển số 77E1-X, nhãn hiệu Honda Winner X, màu bạc đen-đỏ, số máy: KC34E1146074, số khung: 3713LY805397, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Huawei, màu vàng đồng, số Imei: 868009038727303, đã bị bung và nứt vỡ màn hình thu giữ của Trương Ngọc T;
01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu vàng đồng, đã bị bung và nứt vỡ màn hình; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Pro Max, màu xám, dung lượng 512GB, số Imei: 355545245274254 thu giữ của Trương Ngọc Q;
Công văn 734/QLTT-NVTH ngày 13/9/2022 của Cục Quản lý thị trường tỉnh Bình Dương xác định thuốc là điếu do nước ngoài sản xuất, không có hóa đơn chứng từ, không có tem nhập khẩu theo quy định là hàng hóa nhập lậu, theo quy định của Nghị định 43/2009/NĐ-CP thì thuốc lá điếu nhập lậu là mặt hàng cấm kinh doanh, không được phép kinh doanh.
Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 23 ngày 17/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản thị xã Tân Uyên xác định giá trị của 115 cây thuốc lá (gồm 75 cây thuốc lá nhãn hiệu “No.555. AlbertLevy”, sản xuất: Anh và 40 cây thuốc lá nhãn hiệu “No.555. AlbertLevy”, trên bao có dán tem thuốc lá do Việt Nam sản xuất) bị chiếm đoạt có tổng giá trị là 89.000.000 đồng.
Xe mô tô biển số 77El-X, nhãn hiệu Honda Winner X, màu bạc-đen đỏ, số máy: KC34E1146074, số khung: 3713LY805397 do ông Nguyễn An A T đứng tên chủ sở hữu. Năm 2021, ông T đã bán lại xe mô tô biển số 77E1 692 55 đã bán lại cho Công ty TNHH Ô tô xe máy H nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 27/12/2021, Công ty TNHH Ô tô xe máy H đã bán xe mô tô biển số 77E1- X cho Trương Ngọc T. T đã trả trước 6.000.000 đồng cho Công ty TNHH Ô tô xe máy H, số tiền 29.000.000 đồng còn lại, bị cáo T vay thế chấp của Công ty TNHH C với hình thức trả góp hàng tháng, bị cáo T chưa trả tiền tháng nào cho Công ty TNHH C.
Công ty TNHH Ô tô xe máy H không có yêu cầu gì đối với xe mô tô trên. Công ty TNHH C yêu cầu được nhận lại số tiền 29.000.000 đồng.
Về trách nhiệm dân sự: Ông Ph không có yêu cầu bồi thường gì.
Tại Kết luận giám định số 293/KL-KTHS(ĐV) ngày 29 tháng 6 năm 2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận 01 “Danh bản”, “Chỉ bản” vân tay số 110, họ tên: Thạch Khánh L, sinh năm 1989, HKTT:, Ch, S, họ tên Cha: Thạch M, họ tên mẹ La Thị Kim H, lập ngày 21/02/2022 tại Công an thị xã Tân Uyên (ký hiệu A) so với dấu vân tay của Thạch Khánh L trên tài liệu mẫu (ký hiệu từ M1 đếm M4) là của cùng một người in ra.
Tại Cáo trạng số 225/CT-VKS.TU ngày 28/9/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo Thạch Khánh L về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại theo điểm a, d, đ, h khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự, truy tố bị cáo Trương Ngọc Q, Trương Ngọc T về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại theo điểm a, d, đ khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên phát biểu quan điểm như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở xác định hành vi phạm tội của các bị cáo. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mà các bị cáo đã thực hiện. Vì vậy, hành vi của bị cáo Thạch Khánh L đã phạm tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm a, d, đ, h khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự, hành vi của bị cáo Trương Ngọc Q, Trương Ngọc T đã phạm tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm a, d, đ khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Thạch Khánh L từ 09 đến 10 năm tù, xử phạt bị cáo Trương Ngọc Q từ 07 đến 08 năm tù; xử phạt bị cáo Trương Ngọc T từ 07 đến 08 năm tù. Về trách nhiệm dân sự ông Lê Duy Ph không yêu cầu nên không đề cập giải quyết. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy 300 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu “No.555. AlbertLevy”, sản xuất: Anh; giao Công an thị xã Tân Uyên 01 còng số 8, 01 kìm chích màu đen để xử lý theo thẩm quyền; tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Huawei, 01 điện thoại di động hiệu Oppo, 01 điện thoại di động Iphone 12 Pro Max, 01 điện thoại di động Iphone 13 Pro Max; buộc bị cáo Thạch Khánh L nộp 1.500.000 đồng, buộc các bị cáo Trương Ngọc Q, Trương Ngọc T, mỗi bị cáo nộp 1.100.000 đồng để tịch thu nộp ngân sách Nhà nước; giao xe Winner 77E1-X cho Chi cục Thi hành án dân sự thị sẽ Tân Uyên kê biên xử lý theo quy định để trả lại cho Công ty TNHH C số tiền 29.000.000 đồng; phần dư còn lại (nếu có) thì cơ quan thi hành án có trách nhiệm kê biên nộp ngân sách Nhà nước.
Các bị cáo Thạch Khánh L, Trương Ngọc Q, Trương Ngọc T trình bày tranh luận: Các bị cáo không có ý kiến với phần luận tội của Viện Kiểm sát và nói lời nói sau cùng: các bị cáo xin lỗi bị hại, biết hành vi của các bị cáo là vi phạm pháp luật, ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Cơ quan điều tra – Công an, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện việc điều tra, truy tố, ban hành quyết định, văn bản tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên đã truy tố đối với các bị cáo. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, những người tham gia tố tụng và phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận:
[3] Ngày 16/01/2022, tại khu đất trống thuộc xã Bạch Đằng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, các bị cáo Thạch Khánh L, Trương Ngọc Q, Trương Ngọc T đã đe dọa dùng vũ lực dưới hình thức dùng kìm chích điện để chiếm đoạt: 115 cây thuốc lá nhãn hiệu “No.555. AlbertLevy” (gồm 75 cây thuốc lá nhãn hiệu “No.555. AlbertLevy”, sản xuất: Anh và 40 cây thuốc lá nhãn hiệu “No.555. AlbertLevy”, trên bao có dán tem thuốc lá do Việt Nam sản xuất), đang do bị hại Lê Duy Ph có trách nhiệm quản lý, giao hàng, có tổng giá trị là 89.000.000 đồng. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe, quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam, tư lợi nên thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Bị cáo Thạch Khánh L đã tái phạm, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng với lỗi cố ý là tình tiết “tái phạm nguy hiểm”. Căn cứ vào việc bàn bạc kế hoạch, phân công thực hiện chuẩn bị công cụ phạm tội, sự câu kết chặt chẽ giữa các bị cáo, án tích của bị cáo Thạch Khánh L, công cụ, phương tiện thực hiện hành vi phạm tội, giá trị tài sản của các bị cáo chiếm đoạt, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo Thạch Khánh L về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm a, d, đ, h khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự, truy tố các bị cáo Trương Ngọc Q, Trương Ngọc T về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm a, d, đ khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Đối với hành vi ngày 18/01/2022, quá trình kiểm tra điện thoại không phát hiện các tin nhắn liên quan đến việc bị cáo Thạch Khánh L liên hệ đặt mua thuốc lá để thực hiện thủ đoạn như này 16/01/2022, ngoài lời khai của bị cáo L thì không còn chứng cứ nào khác nên căn cứ theo Điều 13, khoản 2 Điều 98 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên không đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên” là có căn cứ.
[5] Đối với nhân thân của bị cáo Trương Ngọc Q, theo Công văn 382/CAH-TH ngày 17/11/2022 xác định từ năm 2015 đến nay không phát hiện thông tin lưu trữ hồ sơ nghiệp vụ liên quan đến đối tượng “Trương Ngọc Q” theo số danh bản như trên. Mặt khác, ngày 24/8/2015, bị cáo Nguyễn Trọng Q có độ tuổi 15 tuổi 5 tháng. Xét thấy, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, do vậy, không có căn cứ để xác định ngày 24/8/2015, bị cáo Trương Ngọc Q xử phạt về hành vi “Trộm cắp tài sản” như lý lịch bị can, trích lục tiền án, tiền sự đã thể hiện.
[6] Trong vụ án này, các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội, trong đó bị cáo Thạch Khánh L là người khởi xướng và trực tiếp thực hiện hành vi cướp tài sản, Trương Ngọc T là người dùng cây kìm chích điện đe dọa, khống chế làm tê liệt ý chí của bị hại, Trương Ngọc Q là người trực tiếp điều khiển phương tiện chở tài sản chiếm đoạt rời khỏi hiện trường.
[7] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.
[8] Ngày 19/01/2022, Công an thị xã Tân Uyên lập biên bản đầu thú đối với bị cáo Nguyễn Trọng Q. Tại điểm i, khoản 1, Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định “Đầu thú là việc người phạm tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình”. Xét thấy, việc bị cáo có lời khai tại Cơ quan Công an là do bị hại Lê Duy Ph và ông Lưu Quốc H dẫn giải đến Cơ quan Công an, không xuất phát từ sự tự nguyện nên Hội đồng xét xử không áp dụng tình tiết “đầu thú” đối với bị cáo Trương Ngọc Q.
[9] Xét, tình hình về xâm phạm về tài sản tại địa phương trong thời gian gần đây diễn biến phức tạp. Các bị cáo bàn bạc với nhau, tạo ra tình huống để chiếm đoạt số thuốc lá của bị hại là Lê Duy Ph, người có trách nhiệm quản lý, giao hàng, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội tại địa phương. Do đó, hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải xử lý tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian phù hợp nhằm có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung, đáp ứng công tác phòng chống tội phạm liên quan đến xâm phạm về tài sản tại địa bàn thị xã Tân Uyên.
[10] Về việc áp dụng hình phạt bổ sung: Các bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, vì muốn có tiền tiêu xài nên thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, tài sản chiếm đoạt đã bị thu giữ nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
[11] Đối với hành vi của Lưu Quốc H, bị hại Ph khai là người thuê Ph vận cHển số thuốc lá bị L chiếm đoạt ngày 16/01/2022, tuy nhiên quá trình điều tra, không làm việc được với H. Kết quả tra cứu tiền án, tiền sự của Lưu Quốc H do Phòng Hồ sơ nghiệp vụ Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định không có thông tin của Lưu Quốc H trong cơ sở dữ liệu, tàng thư nghiệp vụ cảnh sát do cơ quan hồ sơ quản lý, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý hình sự đối với Lưu Quốc H về hành vi “Buôn bán hàng cấm” là có căn cứ.
[12] Về trách nhiệm dân sự: bị hại Lê Duy Ph không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[13] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:
[13.1] Đối với 300 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu “No.555. AlbertLevy”, sản xuất: Anh là hàng cấm nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 160 bao thuốc lá 555 thuốc lá nhãn hiệu “No.555. AlbertLevy”, trên bao có dán tem thuốc lá do Việt Nam sản xuất, là tài sản do bị hại Lê Duy Ph có trách nhiệm quản lý, giao nhận nên trả lại cho bị hại. Trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng là 160 bao thuốc lá 555 thuốc lá nhãn hiệu “No.555. AlbertLevy” sẽ giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự trong vụ án khác.
[13.2] 01 còng số 8, 01 kìm chích màu đen, đây là công cụ hỗ trợ, được sử dụng để thi hành công vụ nhằm hạn chế, ngăn chặn người có hành vi vi phạm pháp luật chống trả, trốn chạy; bảo vệ người thi hành công vụ theo khoản 11 Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ nên cần giao cho Công an thị xã Tân Uyên xử lý theo theo thẩm quyền.
[13.3] Đối với xe Winner 77E1-X, màu bạc - đỏ - đen, đây là tài sản của bị cáo Trương Ngọc T. Bị cáo T đã trả trước số tiền 6.000.000 đồng và vay thế chấp với số tiền 29.000.000 đồng, trả góp hàng tháng cho Công ty TNHH C và dùng xe này để làm phương tiện thực hiện tội phạm. Do vậy, cần giao tài sản cho cơ quan thi hành án kê biên xử lý theo quy định, trả lại cho Công ty TNHH C số tiền 29.000.000 đồng; phần dư còn lại (nếu có) sau khi đã thanh toán xong nghĩa vụ bảo đảm thì cơ quan thi hành án có trách nhiệm kê biên nộp ngân sách Nhà nước.
[13.4] Đối với 01 điện thoại di động hiệu Huawei, 01 điện thoại di động hiệu Oppo, 01 điện thoại di động Iphone 12 Pro Max, 01 điện thoại di động Iphone 13 Pro Max là phương tiện các bị cáo Thạch Khánh L, Trương Ngọc Q, Trương Ngọc T liên hệ lẫn nhau, liên hệ người bán thuốc lá, liên lạc với bị hại để thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
[13.5] Buộc các bị cáo Thạch Khánh L nộp 1.500.000 đồng, bị cáo Trương Ngọc Q nộp 1.100.000 đồng, bị cáo Trương Ngọc T nộp 1.100.000 đồng là tiền thu lợi bất chính để nộp ngân sách Nhà nước.
[13.6] Trả lại cho bị cáo Thạch Khánh L 01 Chứng minh nhân dân mang tên Thạch Khánh L [14] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên về việc giải quyết vụ án phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[15] Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các khoản 1, 2 Điều 260; Điều 268; khoản 1 Điều 269; khoản 1 Điều 331 và khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
1. Tuyên bố bị cáo Thạch Khánh L, Trương Ngọc Q, Trương Ngọc T phạm tội “Cướp tài sản”.
Căn cứ điểm a, d, đ, h khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Thạch Khánh L 09 (chín) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19 tháng 01 năm 2022.
Căn cứ điểm a, d, đ khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Trương Ngọc Q 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19 tháng 01 năm 2022.
Xử phạt bị cáo Trương Ngọc T 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy 300 bao thuốc lá 555 (chỉ có chữ bằng tiếng Anh);
Trả lại cho bị hại Lê Duy Ph 160 bao thuốc lá 555, có dòng chữ “Hút thuốc lá dẫn đến cái chết từ từ và đau đớn”;
Giao cho Công an thị xã Tân Uyên xử lý theo thẩm quyền đối với 01 còng số 8, 01 kìm chích điện màu đen.
Giao xe Winner 77E1-X, màu bạc - đỏ - đen, số máy KC 34E1146074, số khung 3713LY805397 (xe không kính chiếu hậu phải, không kiểm tra máy) cho Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên kê biên xử lý theo quy định để trả lại cho Công ty TNHH C số tiền 29.000.000 đồng; phần dư còn lại (nếu có) thì Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên có trách nhiệm kê biên nộp ngân sách Nhà nước.
Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước:
- 01 điện thoại di động hiệu Huawei màu vàng đồng, số Imei 868009038727303, bị bung và nứt vỡ màn hình, không kiểm tra máy;
- 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu vàng đồng, không kiểm tra được số Imei, bị bung và nứt vỡ màn hình, không kiểm tra máy;
- 01 điện thoại di động Iphone 12 Pro Max, màu đen, 512GB, số Imei 355209290243334;
01 điện thoại di động Iphone 13 Pro Max, màn xám, 512GB, số Imei 355545245274245;
Buộc bị cáo Thạch Khánh L nộp 1.500.000 đồng, bị cáo Trương Ngọc Q nộp 1.100.000 đồng, bị cáo Trương Ngọc T nộp 1.100.000 đồng để nộp ngân sách Nhà nước.
Trả lại cho bị cáo Thạch Khánh L 01 Chứng minh nhân dân mang tên Thạch Khánh L;
(Các vật chứng được ghi nhận trong Biên bản giao nhận vật chứng ngày 03 tháng 10 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).
3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và Danh mục Án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết:
Buộc các bị cáo Thạch Khánh L, Trương Ngọc Q, Trương Ngọc T, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nếu vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.
Bản án về tội cướp tài sản số 275/2022/HS-ST
Số hiệu: | 275/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/12/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về