TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 209/2023/HS-PT NGÀY 27/12/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 27/12/2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh B xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 304/TLPT-HS ngày 02 tháng 11 năm 2023, đối với bị cáo Nguyễn Quang H, do có kháng cáo của bị bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 50/2023/HS-ST ngày 25/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh B.
Bị cáo: Họ và tên: Nguyễn Quang H, sinh năm 1986 tại xã P, huyện T, thành phố Hải Phòng; Nơi ĐKHKTT và cư trú: tổ dân phố T, thị trấn B, huyện Y, tỉnh B; Nghề nghiệp: tự do; Trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Quang C, sinh năm 1950 (đã chết) và bà: Bùi Thị M, sinh năm 1951 (đã chết); Vợ: Trần Thị T, sinh năm 1987; bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2012/HSST ngày 07/5/2012 của Tòa án nhân dân huyên Việt Yên xử phạt 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thử thách 24 tháng về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”; Bản án hình sự phúc thẩm số 153/2016/HSPT ngày 22/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh B xử phạt 03 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” (chấp hành xong tiền án phí tháng 11/2016, chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/9/2018); Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/4/2023 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B (có mặt tại phiên tòa).
Trong vụ án còn có Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên cấp phúc thẩm không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: ngày 06/6/2021, chị Bùi Thị H1, sinh năm 1980, trú tại tổ dân phố H, thị trấn B, huyện Y, tỉnh B có vay của vợ chồng Nguyễn Quang H, sinh năm 1986 và chị Trần Thị T, sinh năm 1987, đều ở tổ dân phố H, thị trấn B, huyện Y số tiền 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) đến ngày 07/4/2023 chị H1 chưa trả cho vợ chồng H số tiền này. Khoảng 17 giờ 40 phút ngày 07/04/2023, H đi một mình đến nhà chị H1 mục đích đòi nợ số tiền vay trên thì được anh Cam Văn L, sinh năm 1981 là chồng chị H1 mở cửa để H vào phòng khách. Lúc này, chị H1 và cháu Trịnh Thị Kim Á, sinh năm 1999 là con chị H1 ở phòng bếp. Thấy H đến, chị H1 lấy 01 chiếc cốc thủy tinh có quai cầm, cao khoảng 07cm, đường kính miệng cốc khoảng 05 đến 07cm rót nước đem ra bàn ở phòng khách mời H uống. H ngồi ghế dài, còn anh L và chị H1 ngồi mỗi người một ghế đơn. H hỏi chị H1 “Tiền nong tao như thế nào rồi?”, chị H1 nói “Cháu vẫn chưa thu xếp được, chú cho cháu khất từ giờ đến cuối tháng”, H nói “Tao không cho đến cuối tháng, tiền nong người ta đòi tao, Đ.mẹ người ta đến nhà người ta đòi, Đ.mẹ tao phải trả người ta, Đ.mẹ mày hứa hết hôm này đến hôm khác đéo được đâu nhá, Đ.mẹ mày hứa từ trong tết đến bây giờ, Đ. mẹ mày tiền nong giả tiền đi chứ, vay mượn người ta đòi Đ.mẹ lằng nhằng. Đ.mẹ mày hứa hết hôm này đến hôm khác tao không chấp nhận được. Thế bây giờ tiền tao như thế nào? Đ.mẹ tiền tao người ta đến nhà người ta đòi, Đ.mẹ tao phải trả người ta”. Nghe vậy, chị H1 tiếp tục xin khất nợ tiền H đến cuối tháng, H vẫn chửi “Tao không cho mày khất hứa đéo gì cả. Đ.mẹ mày bảo từ cái hôm tết đến giờ đến bao nhiêu ngày tháng mà mày không trả à là kiểu gì?”, chị H1 nói với H “Con cháu mới ốm đi viện về hai tháng, chú cho cháu khất từ giờ đến cuối tháng”, H nói với chị H1 “Tao không biết con mày như thế nào cả, mày vay tao mày phải trả, tao không cần biết mày như nào cả, mày hứa nhiều lần lắm rồi tao đéo nghe, cái việc đấy tóm lại là mày lấy tiền trả cho tao, mẹ mày tao không nghe cái chuyện vớ va vớ vẩn. Mẹ ô tô tao phải đi cắm nhà Hòa C1, H để trả người ta, làm đéo có chuyện tao phải nghe mày khất được. Đi vay phải tiết kiệm giả chứ, khất ngày này đến ngày khác, tóm lại đéo lằng nhằng mang tiền đến giả tao”. Quá trình H chửi, chị H1 và anh L không có lời lẽ chửi, xúc phạm và thách thức gì đối với H, chị H1 chỉ xin khất nợ thì H tiếp tục có lời nói và chửi chị H1, đồng thời đứng dậy tay phải cầm 01 chiếc cốc nước thủy tinh trên mặt bàn chị H1 mời H uống định ném chiếc cốc về phía chị H1 nhưng do trượt tay cốc nước bị đổ rê trên mặt bàn đến vị trí khác. Sau đó, tay phải H tiếp tục cầm 01 (một) cốc thủy tinh khác có quai, cao khoảng 12 đến 15cm, miệng cốc có đường kính khoảng 08 đến 10cm trên bàn uống nước rồi giơ lên ném chiếc cốc về phía chị H1, chị H1 nghiêng người sang phải tránh thì chiếc cốc H ném trúng vào sườn trái chị H1 và rơi xuống nền nhà bị vỡ. Quá trình ném chiếc cốc, H chửi chị H1 “Đ.mẹ con chó này, mày thích không, Đ.mẹ mày, bố mày” rồi tiến về phía chị H1 để đánh thì được anh L ôm, giữ H lại và nói “Chú H ơi, chú H ơi, chú H ơi”. Lúc này, cháu Á thấy tiếng cốc rơi vỡ nên từ trong bếp đi ra phòng khách che chắn cho mẹ. Khi H tiến đến định đánh thì chị H1 nói “Cháu xin chú”. Sau đó anh Lam ô, đẩy H ra phía sau ghế chị H1 ngồi, tay phải H cầm 01 (một) chiếc ghế bằng kim loại màu trắng, có đặc điểm mặt ghế hình tròn, đường kính 27cm, mặt đáy làm bằng khung kim loại màu trắng được cuốn hình tròn đường kính 38,5cm, chiều cao của ghế 43cm giơ lên định đánh chị H1 thì anh L can ngăn nên không đánh được chị H1 rồi H đặt ghế xuống nền nhà. Lúc này, cháu Á che chắn đẩy chị H1 về phía cầu thang, anh Lam ô, đẩy H ra phía cửa nhà thì H vẫn tiếp tục chửi, đe dọa chị H1 “Con kia mày thích chết không, cái Đ.mẹ mày tao giết chết mày ngay tại nhà mày đấy, Đ.mẹ tao phải mang xe đi cắm đây này. Đ.mẹ mày thích chết không, Đ.mẹ mày, mày thích nhờn không, tao nói mày nghe nhé, mày không trả tao tao đâm mày chết ngay tại nhà mày. Đ.mẹ mày mang tiền trả tao ngay”. Sau đó anh L buông tay ra, H ngồi xuống ghế dài chửi, đe dọa chị H1 “Đ.mẹ mày tao căm mày lắm rồi đấy. Tao đâm mày chết ngay tại nhà mày, Đ.mẹ mày, mày lừa nhà tao hết ngày này qua ngày khác. Tao phải mang ô tô đi cầm để giả cho người ta, Đ.mẹ mày, tưởng mày chày hơn tao á, mày chày với tao mày chết ngay. Đ.mẹ mày lo tiền trả tao, từ giờ tới tối không mang tiền trả tao đừng trách tao”. Lúc này, chị H1 hoảng sợ không dám nói gì với H, sau đó H đứng dậy đi về đến cửa chỉ tay về phía chị H1 chửi, đe dọa chị H1 “Đ.mẹ mày bố láo bố toét, tao còn hiền thì hiền thật đấy đừng để tao điên, tao phải mang ô tô đi cắm nhà Hòa L1 rồi đấy, Đ.mẹ mày ra hỏi xem phải tao mang ô tô đi cắm không. Đ.mẹ mày, mày chày bửa với ai đừng chày bửa với tao, tao giết chết ngay tại nhà. Từ giờ tới tối mang tiền trả tao” rồi H đi về nhà.
Cùng ngày 07/4/2023, anh L chồng chị H1 làm đơn trình báo gửi đến Công an thị trấn B, huyện Y để được giải quyết. Công an thị trấn B, huyện Y đến hiện trường thu giữ: một số mảnh thủy tinh từ chiếc cốc bị vỡ; 01 (một) chiếc ghế bằng kim loại màu trắng, mặt ghế hình tròn có đường kính 27cm, mặt đáy làm bằng khung kim loại màu trắng được cuốn hình tròn đường kính 38,5cm, chiều cao của ghế 43cm; trích xuất thu giữ 02 đoạn video tại gia đình chị H1 ra 01 (một) USB nhãn hiệu Kingston. Ngày 08/4/2023, Công an thị trấn B, huyện Y chuyển hồ sơ và vật chứng đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y đề giải quyết theo thẩm quyền.
Ngày 08/4/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Quang H.
Ngày 08/4/2023, Cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp nơi ở Nguyễn Quang H, kết quả thu giữ: thu trong két sắt 01 (một) quyển sổ bìa màu đen, phía ngoài có chữ “BUSINESS”, bên trong có 10 (mười) tờ giấy có ghi chữ; thu giữ trong ngăn kéo tủ để giầy 01 (một) con dao loại dao bấm, trên lưỡi dao có chừ “Stainless”. Cùng ngày thu giữ của chị Trần Thị T 01 thẻ nhớ trong Camera an ninh ở phòng khách gia đình chị T, phía ngoài thẻ có chữ “SamSung”. Tiến hành kiểm tra thẻ nhớ không còn lưu giữ video, hình ảnh trong ngày 07/4/2023, chỉ lưu giữ video, hình ảnh trong ngày 08/4/2023. Chị Trần Thị T tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 (một) giấy vay tiền đề ngày 06/6/2021, người vay là Bùi Thị H1 và có chữ ký của chị H1 (bản gốc).
Ngày 08/4/2023, Cơ quan điều tra Công an huyện Y trích xuất tại gia đình chị Bùi Thị H1 01 (một) đoạn video tại Camera trong nhà chị H1 trong thời gian từ 16 giờ 14 phút 00 giây đến 16 giờ 20 phút 05 giây ngày 07/4/2023 (theo thời gian hiển thị trên Camera an ninh nhà chị H1) và lưu trữ trong 01 đĩa DVD để phục vụ công tác điều tra. Ngày 12/4/2023, Cơ quan điều tra Công an huyện Y trích xuất tại gia đình chị Bùi Thị H1 01 (một) đoạn video tại C trong thời gian từ 16 giờ 13 phút 00 giây đến 16 giờ 20 phút 00 giây ngày 07/4/2023 (theo thời gian hiển thị trên Camera an ninh nhà chị H1) và lưu trữ trong 01 đĩa USB nhãn hiệu Kingston.
Tại giấy chứng nhận thương tích ngày 08/4/2023, do Trung tâm y tế huyện Y xác định chị Bùi Thị H1 đến khám lúc 11 giờ 51 phút ngày 08/4/2023. Tình trạng lúc vào viện: Bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt, đau vùng sườn trái, tương ứng khoang liên sườn VIII-XI đường nách trước; vết bầm tím sườn trái, kích thước 2x4cm, đau khi thăm khám; phổi rì rào phế nang rõ, không có rales. Bụng mềm, không chướng, sờ gan, nách không to; khám các cơ quan khác bình thường. Chụp Xquang ngực thẳng: Không thấy hình ảnh tổn thương trên phim.
Tại kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 1341/23/KLTTCT-TTPY ngày 11/4/2023 của Trung tâm pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh B kết luận:
“1. Các kết quả chính: Thương tích vết biến đổi sắc tố da sườn trái: 1%.
2. Kết luận: Căn cứ Thông tư 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể của Bùi Thị H1 tại thời điểm giám định là 1% (Một phần trăm), áp dụng phương pháp cộng tại Thông tư.
3. Kết luận khác: Vật, cơ chế, chiều hướng gây thương tích. Các thương tích do vật tày gây nên, không xác định được chiều hướng và lực gây thương tích”.
Trong các ngày 14/4/2023, 15/4/2023 và 18/4/2023, Cơ quan điều tra Công an huyện Y tiến hành ghi âm giọng nói bị cáo Bùi Quang H2, chị Bùi Thị H1 và anh Cam Văn L; trích xuất nội dung ghi âm của chị H1, anh L và bị cáo H2 ra các USB nhãn hiệu Kingston 32GB, để phục vụ công tác giám định.
Tại Kết luận giám định số 2943/KL-KTHS ngày 06/7/2023 của V- Bộ C3 kết luận:
“- Tiếng nói của người đàn ông trong các file (ký hiệu A1) mẫu cần giám định (ký hiệu “Huy” trong Bản dịch nội dung ghi âm mẫu cần giám định) và tiếng nói của Nguyễn Quang H trong mẫu so sánh là của cùng một người.
- Không giám định được tiếng nói của Cam Văn L, Bùi Thị H1 do mẫu cần giám định có chất lượng kém.
- File video (ký hiệu A2) không có âm thanh nên không giám định tiếng nói.
- Đã tiến hành chuyển nội dung trong file (ký hiệu A1) mẫu cần giám định thành văn bản.
- Kèm theo Kết luận giám định: 01 Bản dịch nội dung ghi âm mẫu cần giám định gồm 02 trang A4”.
Tại Kết luận giám định số 686/KL-KTHS ngày 17/4/2023 của Phòng K Công an tỉnh B kết luận: Không phát hiện dấu vết cắt ghép nội dung hình ảnh trong 02 (hai) file video lưu trữ trong 01 (một) USB gửi giám định.
Tại Kết luận giám định số 811/KL-KTHS ngày 9/5/2023 của Phòng K Công an tỉnh B kết luận:
- Chữ viết trên các tài liệu cần giám định (ký hiệu từ A1 đến A10) so với chừ viết của Trần Thị T trên các tài liệu mẫu (ký hiệu M7, M8, M9) là do cùng một người viết ra.
- Chữ ký dạng chữ viết, chữ viết trên tài liệu cần giám định (ký hiệu AI 1) so với chữ viết của Bùi Thị H1 trên các tài liệu mẫu (ký hiệu M1, M2, M3) là do cùng một người viết ra.
Tại Kết luận giám định số 812/KL-KTHS ngày 09/5/2023 của Phòng K Công an tỉnh B kết luận:
- Tìm thấy, khôi phục, trích xuất được 143 (một trăm bốn mươi ba) file video trong thẻ nhớ Micro SD gửi giám định (trong ngày 07/4/2023); một số file video bị gián đoạn, do thẻ nhớ đã được định dạng lại và tiếp tục bị ghi đè (chi tiết các dữ liệu được thể hiện trong tệp tin “Dữ liệu” có tổng dung lượng 1,06 GB được lưu trong đĩa DVD-R).
- Kèm theo kết luận giám định: 01 (một) đĩa DVD-R nhãn hiệu Nova, màu bạc, một mặt có chữ ký, chữ viết của giám định viên.
Kết quả nhận dạng qua ảnh: Huy nhận ra chị H1 và anh L là người Huy đến nhà chửi, đe dọa; Anh L người ôm, can ngăn khi H chửi, đe dọa chị H1 đòi tiền nợ ngày 07/4/2023; Chị H1 và anh L nhận ra H là người đến đòi tiền nợ, chửi, đe dọa, cầm cốc nước thủy tinh ném chị H1, lấy một con dao bấm trong túi quần ra đe dọa đâm chết chị H1 và cầm một chiếc ghế bằng kim loại màu trắng giơ lên định đánh chị H1 thì anh L can ngăn; Cháu Trịnh Thị Kim Á nhận ra Nguyễn Quang H là người đàn ông lạ mặt đến nhà cháu Á chửi, đe dọa, cầm dao dọa giết, cầm ghế I giơ lên định đánh chị Hà m đẻ cháu Á vào ngày 07/4/2023.
Kết quả nhận dạng vật chứng: anh L và cháu Á nhận con dao H sử dụng đe dọa giết chị H1, chị H1 chỉ nhận ra ảnh số 03 có đặc điểm tương tự giống với con dao H sử dụng đe dọa giết chị H1 thu giữ khi khám xét khẩn cấp tại nhà H vào ngày 08/4/2023.
Kết quả thực nghiệm điều tra: cho anh Lưu Vĩnh Đ1, sinh năm 2000, trú tại bản Đ, xã Đ, huyện L, tỉnh B đóng thế bị cáo H. Kết quả: khi người đóng thế bị cáo H cầm cốc nước thủy tinh tay phải ném chị H1, chị H1 nghiêng người sang phải, chiếc cốc ném trúng vào sườn trái chị H1. Cho anh Lưu Vĩnh Đ1 đóng thế bị cáo H. Kết quả: Anh L quan sát được khi người đóng thế bị cáo H cầm cốc nước thủy tinh tay phải ném chị H1, chị H1 giơ hai tay che mặt, nghiêng người sang phải thì chiếc cốc thủy tinh trúng vào sườn trái chị H1.
Cơ quan điều tra cho H xem lại đoạn video, clip ghi lại quá trình xảy ra ngày 07/4/2023 tại phòng khách gia đình chị Bùi Thị H1. Kết quả: H xác định người đàn ông mặc quần ngố màu đen, áo phông cộc tay không cổ màu đen là H; Người đàn ông mặc quần ngố màu đen, áo phông cộc tay có cổ màu đen là anh L; Người phụ nữ mặc quần dài màu đen, mặc áo sơ mi có hoa văn trong bếp đi ra là chị H1. H là người ngồi trên ghế băng dài, chị H1 ngồi trên ghế đơn bên trong, anh L ngồi trên ghế đơn gần cửa ra vào, còn người phụ nữ mặc áo phông màu trắng từ trong bếp đi ra phòng khách H không biết là ai. H là người cầm cốc nước hắt về phía chị H1 vào hồi 16 giờ 17 phút 20 giây ngày 07/4/2023 (theo thời gian hiển thị trên hình ảnh), H là người cầm ghế I trong phòng khách nhà chị H1 vào hồi 16 giờ 17 phút 33 giây ngày 07/4/2023 (theo thời gian hiển thị trên hình ảnh).
Quá trình điều tra, bị cáo H không khai nhận hành vi phạm tội của mình. H cho rằng ngày 06/6/2021, H cho chị H1 vay số tiền 100.000.000 đồng không lấy lãi, H đòi nhiều lần, chị H1 đều khất nợ. Ngày 07/4/2023, H đến nhà chị H1 mục đích để đòi nợ số tiền trên. Mặc dù, H không thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân nhưng căn cứ vào lời khai chị H1, anh L và cháu Á; file video, hình ảnh có âm thanh thu giữ tại hiện trường và tài liệu chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ xác định Nguyễn Quang H đã phạm vào tội “Cướp tài sản” quy định tại điểm d, điểm đ khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự.
Do có mâu thuẫn giữa lời khai của chị H1, anh L, cháu Á với bị cáo H. Cơ quan điều tra tiến hành đối chất nhưng tất cả đều từ chối đối chất với bị cáo H và giữ nguyên lời khai của mình.
Quá trình điều tra chị H1 khai: Ngày 06/6/2021, chị H1 được vợ chồng H cho vay số tiền 100.000.000 đồng, lãi suất là 3.000đồng/1 triệu/1 ngày, chị T là người giao tiền, chị H1 viết “Giấy vay tiền” và đưa chị T giữ. Quá trình vay tiền chị H1 trả lãi khoảng hơn 10 tháng cho vợ chồng H khoảng 100.000.000đồng, tiền gốc chưa trả. Đến tháng 3/2023 còn 08 tháng tiền lãi chị H1 chưa trả cho H số tiền 72.000.000đồng nên H yêu cầu chị H1 viết giấy vay tiền khác nội dung chị H1 vay thêm của H số tiền 72.000.000 đồng để chuyển số tiền lãi này thành tiền nợ gốc chị H1 vay của H, chị H1 còn nợ gốc H tổng số tiền là 172.000.000 đồng nên chiều ngày 07/4/2023, H đến nhà chị H1 đòi số tiền trên nhưng H và chị T không thừa nhận. Ngoài lời khai chị H1, không có căn cứ nào xác định H và chị T cho chị H1 vay với lãi suất như trên nên H và chị T không phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” và không có căn cứ xác định số tiền 72.000.000 đồng chị H1 khai nhận là số tiền lãi của số tiền vay 100.000.000 đồng.
Với nội dung trên, Bản án hình sự sơ thẩm số: 50/2023/HS-ST ngày 25/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh B đã quyết định: căn cứ điểm d, đ khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn Quang H 09 (C2) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 08/4/2023.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 29/9/2023 bị cáo Nguyễn Quang H có đơn kháng cáo đề nghị xin giảm mức hình phạt.
Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Nguyễn Quang H trình bày sau khi bị xét xử sơ thẩm, bị cáo đã nói với chị T là vợ đến nhà chị hà thăm hỏi, động viên, xin lỗi chị H1 thay bị cáo, bị cáo nhờ chị T tự nguyện nộp thay bị cáo tiền án phí sơ thẩm, quá trình sinh sống tại địa phương bị cáo đã tích cực ủng hộ phong trào phòng trống Covid-19 và được chủ tịch UBND thị trấn B, huyện Y tặng giấy khen, bị cáo rất ăn năn, hối lỗi về hành vi phạm tội của mình nên đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích tính chất, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Tại cấp phúc thẩm gia đình bị cáo H đã giao nộp một số tài liệu là các tình tiết giảm nhẹ TNHS mới cho bị cáo H được quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị HĐXX căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điểm c Khoản 1 Điều 357 Bộ luật TTHS, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quang H; Sửa bản án sơ thẩm số 50/2023/HS-ST ngày 25/9/2023 của TAND huyện Yên Thế, giảm hình phạt tù cho bị cáo. Áp dụng Điểm d, đ Khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS: xử phạt bị cáo Nguyễn Quang H 07 năm tù về tội “Cướp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 08/4/2023. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Phần tranh luận : bị cáo không tranh luận gì Bị cáo lời sau cùng: bị cáo rất ân hận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Xét hành vi của bị cáo HĐXX thấy: tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn H3 thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã nhận định là đúng, không oan. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ kết luận: khoảng 17 giờ 40 phút ngày 07/4/2023, tại nhà chị Bùi Thị H1, sinh năm 1980, trú tại tổ dân phố H, thị trấn B, huyện Y, tỉnh B; Nguyễn Quang H, sinh năm 1986, ở tổ dân phố H, thị trấn B, huyện Y đã có hành vi chửi bới, đe dọa; dùng một cốc thủy tinh có quai cầm, cao khoảng 12 đến 15cm, miệng cốc có đường kính khoảng 08cm đến 10cm ném chị H1 và sử dụng một chiếc ghế bằng kim loại màu trắng, có đặc điểm mặt ghế hình tròn, đường kính 27cm, mặt đáy làm bằng khung kim loại màu trắng được cuốn hình tròn đường kính 38,5cm, chiều cao của ghế 43cm giơ lên định đánh, đe dọa, giết chị H1 mục đích đòi nợ số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) chị H1 đã vay của H. Hành vi dùng chiếc cốc thủy tinh ném chị H1, ghế bằng kim loại, đe dọa đánh chị H1 của H để đòi tiền chị H1 nợ là trái pháp luật. Khi thực hiện hành vi, bị cáo đủ tuổi, đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Vì vậy hành vi của bị cáo H đã cấu thành tội “Cướp tài sản” theo quy định tại Điểm d, đ khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự. Án sơ thẩm kết án bị cáo 09 năm tù với tội danh và điều luật viện dẫn ở trên là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên mức án 09 năm tù đối với bị cáo là nặng so với nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo, so với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.
[2]. Xét nội dung kháng cáo của bị cáo HĐXX thấy:
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; ông Nguyễn Quang C (bố đẻ bị cáo) là thương binh, được nhà nước tặng thưởng huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất; bị cáo bị kích động về tinh thần do bị hại đã khất nợ nhiều lần nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Án sơ thẩm áp dụng cho bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.
Xét nguyên nhân xảy ra vụ án là do phía chị H1 là bị hại đã vay tiền của bị cáo lâu nhưng không thu xếp trả bị cáo dẫn đến bị cáo phải đi cầm cố xe ô tô của gia đình để trang trải khoản nợ của chị H1. Như vậy phía bị hại cũng có một phần lỗi dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm: gia đình bị cáo đã giao nộp 1 số tài liệu mới gồm: chị Bùi Thị H1 người bị hại có đơn xin giảm hình phạt tù cho bị cáo; bản sao giấy khen của UBND thị trấn B, huyện Y năm 2021 do bị cáo đã có thành tích trong công tác vận động và ủng hộ phòng chống dịch Covid 19 tại địa phương; biên lai thu tiền số 000380 ngày 08/12/2023 tại Chi cục THADS huyện Y tiền tự nguyện nộp trước tiền án phí HSST trước khi có quyết định thi hành án; bản sao Huân chương chiến sĩ giải phóng hạng nhì cho ông Trần Quang Đ2 (là bố vợ bị cáo). Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới của bị cáo được hưởng theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên có căn cứ để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà phúc thẩm.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: do kháng cáo của Bị cáo được chấp nhận nên Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điểm c Khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự. Xử:
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quang H; Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 50/2023/HS - ST ngày 25/9/2023 của TAND huyện Yên Thế, tỉnh B. Giảm hình phạt tù cho bị cáo Nguyễn Quang H.
2. Căn cứ điểm d, đ khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Nguyễn Quang H 07 (bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 08/4/2023.
3. Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo không phải chịu án.
4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cướp tài sản số 209/2023/HS-PT
Số hiệu: | 209/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về