TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 20/2024/HS-PT NGÀY 08/03/2024 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 08 tháng 03 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đ xét xử trực tuyến công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 06/2024/TLPT-HS, ngày 12 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo Nguyễn Văn L do có kháng cáo của bị cáo và bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 76/2023/HS-ST, ngày 30 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện R, tỉnh Đ.
Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn L, tên gọi khác: Cu; sinh ngày 25-02- 2003 tại tỉnh Quảng Trị. Nơi cư trú: Thôn Q, xã N, huyện R, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1974 và bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1976; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 17-7- 2023 - Có mặt.
Bị hại: Chị Hoàng Thị Minh C, sinh năm 1998; địa chỉ: Thôn Q, xã N, huyện R, tỉnh Đ - Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Văn L và chị Hoàng Thị Minh C có quan hệ tình cảm, yêu đương nam, nữ với nhau từ tháng 11 năm 2022. Đến khoảng tháng 6 năm 2023, chị C nhiều lần chủ động chia tay với L nhưng L không đồng ý. Tối ngày 25-6-2023, trong quá trình ăn nhậu tại Tiệm thẩm mỹ Vạn Kim của vợ chồng anh Trần Văn H và chị Nguyễn Thị Kim Đ, thuộc thôn Q, xã N, huyện R, tỉnh Đ, thì anh H có nhờ L mượn 01 con dao cạo mủ cao su để sáng hôm sau L cùng anh H và nam thanh niên tên H1 (là bạn của H) đi cạo mủ cao su cho anh H và được L đồng ý. Sau khi nghỉ nhậu, L nghĩ đến chị C và cho rằng chị C nói xấu mình với người khác nên nảy sinh ý định đến nhà chị C để giải quyết mâu thuẫn.
Để thực hiện ý định, L gọi điện thoại cho Hoàng Minh P, sinh năm 2006, trú tại: Thôn Q, xã Đ, huyện R, tỉnh Đ xin 01 chai xăng, L nói với P xin xăng để đổ vào xe mô tô của L. P đồng ý và lấy 01 chai nhựa, loại vỏ chai nước ngọt 0°, chứa khoảng 350ml xăng mang đến cho L, sau đó L nhặt được 01 chai thủy tinh màu xanh, rồi đổ xăng từ chai nhựa sang chai thủy tinh và dùng miếng vải màu đen cuộn tròn nhét vào chai thủy tinh. L nhờ P chở L về nhà L ở thôn Q, xã N, huyện R, tỉnh Đ. L nói P đứng chờ ở ngoài còn L đi vào trong nhà lấy 01 con dao, nhãn hiệu Kiwi, dài 21cm, cán dao màu vàng, dài 10,5cm, lưỡi dao bằng kim loại, sắc, dài 10,5cm, bản rộng 1,9cm, mũi dao nhọn, 10 con đinh vít bằng kim loại và 01 quẹt ga màu xanh. L bỏ các đồ vật trên cùng chai thủy tỉnh chứa xăng vào túi trong của chiếc áo khoác L đang mặc, rồi tiếp tục nhờ P chở vào nhà nam thanh niên tên T1 (bạn của L), trú tại thôn Q, xã Đ, huyện R, tỉnh Đ để mượn dao cạo mủ cao su.
Khoảng 20 giờ cùng ngày, sau khi mượn được dao cạo mủ cao su, L chỉ đường và nhờ P điều khiển xe mô tô chở L đến đoạn đường trước cổng nhà của gia đình chị C tại Thôn Q, xã N, huyện R, tỉnh Đ. L đưa con dao cạo mủ cao su cho P giữ hộ và nói với P đứng chờ ngoài để L đi vào nhà chị C mượn đèn pin. Vào nhà, L thấy bà Trần Thị T2 là mẹ ruột của chị C đang xem ti vi tại phòng khách. Thời điểm này, ngoài chị C, bà T2 trong nhà còn có ông Hoàng Văn H1 là bố ruột chị C, Hoàng Văn V là em ruột của chị C. L nhờ bà T2 gọi chị C ra khu vực sân trước hiên nhà chị C để nói chuyện. Sau khi bà T2 gọi chị C đi ra sân, L lấy chai thủy tinh đựng xăng và con dao L mang theo để xuống sân gần vị trí chị C và L đứng nhằm mục đích cho chị C thấy. Đồng thời L lấy chiếc quẹt ga bật lửa hù dọa chị C và trách móc chị C vì sao không nghe điện thoại, không trả lời tin nhắn của L. Khi chị C nói cho L biết việc chị C đã xóa Facebook của L, L tức giận dùng tay tát 01 cái vào má bên phải của chị C và yêu cầu chị C đưa điện thoại của chị C cho L để kiểm tra, nếu chị C không làm theo yêu cầu của L thì L sẽ đốt cháy cả nhà chị C. Do lo sợ nên chị C đi vào trong phòng ngủ của mình lấy chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu vàng, phần lưng chiếc điện thoại gắn ốp lưng bằng nhựa màu hồng đưa cho L, L ngồi xuống bậc thềm trước hiên nhà chị C mở điện thoại của chị C ra kiểm tra tin nhắn. Lúc này, chị C lấy con dao L mang đến ném ra ngoài vườn, rồi yêu cầu L trả lại điện thoại cho mình. Tuy nhiên, L không trả lời, L cầm lấy chiếc điện thoại của chị C bỏ vào túi áo khoác của L, đồng thời cầm chai xăng đứng dậy định đi ra ngoài đường. Thấy vậy, chị C tiếp tục yêu cầu L trả lại điện thoại nhưng L không trả. L nói với chị C muốn lấy điện thoại thì đi qua Tiệm thẩm mỹ VK quỳ xuống xin lỗi L nhưng chị C không đồng ý. Lúc này, chị C dùng hai tay kéo tay L lại để lấy lại chiếc điện thoại của mình thì L dùng tay hất tay chị C ra và dùng tay tát 01 cái vào má bên trái của chị C. Chị C cũng dùng tay trái tát vào má bên phải của L 01 cái, rồi dùng hai tay kéo người L lại nhằm lấy lại chiếc điện thoại của mình. Lúc này, L hất tay chị C ra, rồi cầm chai xăng đổ xăng lên đầu và quần áo chị C đang mặc, bị L đổ xăng lên đầu và quần áo, chị C hoảng sợ không dám phản kháng để dành lấy chiếc điện thoại của mình nữa. Lúc này, L bỏ đi ra đường, chị C quay vào nhà gọi em ruột của chị C là Hoàng Văn V đang ở trong nhà, chị C vừa dứt lời thì bị L cầm chai thủy tinh đựng xăng trước đó ném trúng đầu gối trái của chị C. Sau đó, L đi ra đường và nhờ Hoàng Minh P chở về Tiệm thẩm mỹ VK. L đi vào căn phòng chị Nguyễn Thị Kim Đ sử dụng làm phòng gội đầu cho khách nằm lên chiếc võng, rồi L lấy chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 Plus của chị C bỏ vào bên trong khe hở của bức tường trong căn phòng nhằm cất giấu. Khi vợ, chồng chị Đ và anh H biết việc L chiếm đoạt chiếc điện thoại của chị C nên chị Đ và anh H hỏi L về chiếc điện thoại trên thì L trả lời L đã đập nát chiếc điện thoại của chị C. Sau đó, chị C làm đơn tố cáo hành vi của L đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện R. Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn L đã thừa nhận hành vi của mình.
Tại bản kết luận định giá tài sản số: 20/KLHĐĐG ngày 04-7-2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện R, kết luận: 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 plus, 32 Gb, số máy: MNQP2VN/A, số sê ri: DX3ZNAA0HG06, đã qua sử dụng tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng); 01 ốp lưng điện thoại di động màu hồng, trên ốp lưng có các ô vuông tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị là 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là: 3.050.000 đồng (Ba triệu không trăm năm mươi nghìn đồng).
Bản án hình sự sơ thẩm số: 76/2023/HS-ST, ngày 30 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện R đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Cướp tài sản”. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 07 (bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 17-7-2023.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, án phí, thông báo quyền kháng cáo.
Ngày 06 và 15-12-2023, bị hại Hoàng Thị Minh C và bị cáo Nguyễn Văn L kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm số 76/2023/HS-ST, ngày 30 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện R. Nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận bị Tòa án nhân dân huyện R kết án về tội “Cướp tài sản” quy định tại Điều 168 của Bộ luật Hình sự là đúng, không oan.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ phát biểu quan điểm và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn L; giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 76/2023/HS-ST, ngày 30 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện R, tỉnh Đ về phần hình phạt và điều luật áp dụng Bị cáo trình không có ý kiến, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tội danh: Bản án sơ thẩm số: 76/2023/HS-ST, ngày 30 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện R xử phạt Nguyễn Văn L về tội “Cướp tài sản” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan.
[2]. Đối với kháng cáo của bị cáo và bị hại thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 07 (bảy) năm tù là đã xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, gia đình bị cáo cung cấp tình tiết giảm nhẹ là: bà Nguyễn Thị L1 (mẹ của bị cáo) cung cấp biên bản thoả thuận bồi thường thiệt hại cho chị Hoàng Thị Minh C 3.200.000đ (ba triệu hai trăn nghìn đồng) và bị hại tiếp tục có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tuy nhiên, tại phiên toà bị cáo khẳng định không biết việc gia đình thoả thuận bồi thường và không tác động gia đình bồi thường cho bị hại, do đó tình tiết mới chỉ được áp dụng khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Từ những nhận định nêu trên, không đủ căn cứ áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cho bị cáo. Do đó, không có căn cứ chấp nhận nội dung kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và bị hại.
[3]. Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo và bị hại không được chấp nhận nên bị cáo và bị hại phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4]. Đối với các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn L và bị hại Hoàng Thị Minh C; giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 76/2023/HS-ST, ngày 30 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện R, tỉnh Đ về phần hình phạt và Điều luật áp dụng.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Cướp tài sản”. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
Nguyễn Văn L 07 (bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 17-7-2023.
2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng điểm h khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn Văn L và bị hại Hoàng Thị Minh C mỗi người phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cướp tài sản số 20/2024/HS-PT
Số hiệu: | 20/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về