TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 182/2024/HS-PT NGÀY 24/09/2024 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 24/9/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 35/2024/TLPT-HS ngày 12/8/2024 đối với bị cáo Hà Tuấn P, do có kháng cáo của bị cáo Hà Tuấn P đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 129/2021/HS-ST ngày 04/7/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang;
*Bị cáo kháng cáo: Họ và tên: Hà Tuấn P, sinh ngày 03/02/2009; Tên gọi khác: không; Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố Tiền Giang, phường Lê Lợi, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
Nơi ở: Số nhà 02, ngõ 239, đường Nguyễn Công Hãng, phường Trần Nguyên Hãn, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
Giới tính: Nam. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Học sinh; Trình độ văn hóa: 09/12;
Con ông: Hà Văn T, sinh năm 1980; Con bà: Nguyễn Thị H1, sinh năm 1981; Gia đình bị cáo có 3 chị em, bị cáo là thứ ba; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại ( Có mặt tại phiên tòa).
*Người đại diện hợp pháp của bị cáo Hà Tuấn P:
Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1981 ( Có mặt).
Địa chỉ: Số nhà B, ngõ B, đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.
* Người bảo chữa cho bị cáo Hà Tuấn P: Ông Trần Công T1 - Luật sư, Văn phòng L thuộc Đoàn Luật sư tỉnh B ( Có mặt).
Địa chỉ: Số 985a, đường L, tổ dân phố G, phường D, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.
Trong vụ án còn có 01 bị cáo khác, 01 người bị hại và 07 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên cấp phúc thẩm không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Buổi chiều ngày 13/12/2023, Nguyễn Trường H2, sinh ngày 09/4/2007, trú tại số nhà A, ngõ F, đường N, phường N, thành phố B và Nguyễn Nhật M, sinh ngày 03/02/2009, trú tại số nhà B, ngõ E, đường C, phường T, thành phố B đến nhà văn hóa tổ dân phố C, phường T, thành phố B chơi thể thao. Sau đó, H2 nhận được điện thoại của Hà Tuấn P, sinh ngày 03/02/2009, trú tại số nhà B, ngõ B, đường N, phường T, thành phố B gọi đến bảo H2 đi đến đường M, thành phố B đón. H2 bảo M điều khiển xe mô tô Honda Wave biển số 98B3-xxxxx chờ H2 đến đón P đi chơi.
Khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, M điều khiển xe mô tô biển số 98B3 xxxxx chờ P ngồi giữa và H2 ngồi sau đi theo đường M về hướng trung tâm thành phố B. Khi đi đến cách vòng xuyến ở đầu cầu M khoảng 100 mét thì thấy Đào Tuấn A, sinh ngày 25/08/2008, trú tại thôn Đ, xã T, thành phố B đang điều khiển xe máy điện chở bạn là Trần Việt T2, sinh ngày 06/11/2008, trú tại thôn G, xã T, thành phố B (đều là học sinh lớp 10A8 trường THPT N, thành phố B) đi ngược chiều. H2 tưởng là người quen nên bảo M quay lại đi xem có phải người quen hay không. M vòng xe quay lại đuổi theo đến gần đường tàu cắt ngang đường M thì vượt lên, H2 và P quay sang nhìn Tuấn A và T2 thì xác định không quen biết. Lúc này, H2 nói với P và M: “Không phải người quen thì tạt xe vào đánh nó một hai cái rồi đi luôn”, M điều khiển xe đi chậm lại. Khi Tuấn A điều khiển xe đi đến gần thì H2 quay mặt lại nói “Tấp vào lè”. Tuấn A dừng xe lại, đỗ ở lề đường và ngồi trên xe, tay trái T2 đang cầm chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax, trong lắp sim số 0899 154 762. P và H2 xuống xe, còn M điều khiển xe vòng lại đỗ ở bên phải đường phía đối diện. H2 và P đi đến vị trí Tuấn A và T2 đang dừng xe. H2 dùng tay đấm một cái vào mặt Tuấn A, P dùng tay đấm một cái vào mặt T2 rồi quay sang đấm một cái vào mặt Tuấn A. Sau đó, H2 dùng chân phải đạp một cái vào người T2 làm T2 bị ngã xuống đường, chiếc điện thoại Iphone 11 Promax Tiến đang cầm trên tay bị rơi xuống đường ở trước mặt. H2 xông đến dùng tay trái ghi đầu T2 xuống sát mặt đường còn P đứng ở bên cạnh. T2 và Tuấn A sợ nên không dám chống cự lại. Khi đang dùng tay ghi đầu T2 thì H2 nhìn thấy chiếc điện thoại của T2 bị rơi ở bên cạnh nên này sinh ý định chiếm đoạt. H2 dùng tay trái ghi đầu T2, tay phải cầm lấy chiếc điện thoại di động của T2 rồi đưa cho P cầm. Lúc này, anh Nguyễn Việt A1, trú tại số nhà C, đường M nhìn thấy đánh nhau nên từ trong nhà chạy ra hô hoán thì P và H2 bỏ chạy ra vị trí M chờ. T2 thấy H2 lấy điện thoại thì nói theo: “Anh ơi điện thoại của em” nhưng H2 không nói gì. M điều khiển xe chờ H2 và P đi về hướng trung tâm thành phố. Trên đường đi, P hỏi H2: “Anh ơi lấy điện thoại của nó à” thì H2 trả lời “ừ”. P nói với H2 không phá được mật khẩu và bảo H2 đi bán điện thoại thì H2 đồng ý.
Khi M điều khiển xe chờ H2, P đi trên đường N thì gặp Vũ Trí Thành G, sinh ngày 22/12/2007, trú tại số A, đường T, tổ G, phường T, thành phố B, là bạn của H2 điều khiển xe máy điện đang trên đường đi dự sinh nhật bạn. H2 gọi G quay lại và nói “Mày chờ anh đi bán điện thoại”. G nói đang đi dự sinh nhật bạn nhưng H2 vẫn ngồi lên xe của G. H2 bảo G, P ngồi sau và bảo M đi xe về nhà. Khi đi đến cầu chui trên đường V, phường T, thành phố B thì H2 dừng xe lại đi vào quán bên đường xin tăm để tháo sim trong điện thoại của anh T2. P không tháo được sim nên quay vào quán xin tăm mang ra đưa cho G nhờ tháo sim. G tháo sim xong rồi đưa điện thoại cho H2 cầm và vứt sim điện thoại đi. Sau đó, H2 điều khiển xe chờ G và P đi bán điện thoại. H2 đi đến cửa hàng mua bán điện thoại Tinh Mobile ở số nhà B đường N, phường T, thành phố B thì dừng lại. G và H2 chờ ở ngoài. P cầm chiếc điện thoại vào trong gặp chị Thân Thị P1, sinh năm 1981 là chủ cửa hàng. P nói với chị P1 nhặt được điện thoại nên không biết mật khẩu và gạ bán với giá 2.000.000 đồng. Chị P1 trả giá 1.200.000 đồng thì P đồng ý bán. Chị P1 đưa cho P 1.200.000 đồng. Sau đó, G đi dự sinh nhật bạn còn H2 và P ăn tối và đi chơi game. Hai người đã sử dụng trả tiền ăn hết 180.000 đồng. P đưa cho H2 700.000 đồng, số tiền còn lại P chi tiêu cá nhân hết.
Kết luận định giá tài sản số 264/KL-HĐ ngày 20/12/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận: “01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax, màu xanh rêu, đã qua sử dụng trị giá tại thời điểm ngày 13/12/2023 là 8.000.000 đồng; 01 thẻ sim điện thoại trị giá tại thời điểm ngày 13/12/2023 là 30.000 đồng. Tổng cộng: 8.030.000 đồng”.
Cơ quan điều tra đã thu giữ và trưng cầu giám định file video trích xuất tại camera của gia đình ông Nguyễn Đình V, sinh năm 1969, trú tại thôn M, xã T, thành phố B ghi lại diễn biến sự việc. Kết luận giám định số 881/KL-KTHS ngày 19/4/2024 của Phòng K Công an tỉnh B kết luận:
“1. Không phát hiện dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung hình ảnh trong file video có tên “NVR_ch2_main_20231213183600_20231213184000.dav” dung lượng: 66MB, thời lượng 02 phút 11 giây lưu trữ trong đĩa DVD-R gửi giám định.
2. Trích xuất được 10 (mười) hình ảnh thể hiện diễn biến sự việc trong file video gửi giám định”.
Bản cáo trạng số 108/CT-VKS ngày 14/5/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang đã truy tố các bị cáo Nguyễn Trường Hiếu, Hà Tuấn Phong cùng về tội “Cướp tài sản” theo điểm e khoản 2 Điều 168 (e. Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi) của Bộ luật hình sự năm 2015.
Bản án hình sự sơ thẩm số: 129/2024/HS-ST ngày 04/7/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:
Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Đều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Hà Tuấn P 02 (Hai) năm 06 (S) tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra bản án còn tuyên xử phạt đối với bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 08/7/2024, bị cáo Hà Tuấn P kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung đề nghị Tòa cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Hà Tuấn P giữ nguyên yêu cầu kháng cáo với lý do: Bị cáo ủng hộ UBMT tổ quốc tỉnh Bắc Giang 250.000 đồng cho đồng bào bị ảnh hưởng do cơn bão số 3 Yagi gây ra; đơn đề nghị của Trường Trung học cơ sở T4 và của bà Đỗ Thị H3 đại diện cho cháu Trần Việt T2 là người bị hại đề nghị giảm hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có kiện tiếp tục học tập, tu dưỡng, cải tạo trở thành người có ích cho xã hội.
Bản nhận xét của BCH Chi đoàn tổ dân phố A phường T, thành phố B đã tham gia sinh hoạt hè từ 01/6/2024 đến 30/8/2024 kết quả hoạt động tốt;
Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đưa ra đề nghị xem xét các vấn đề kháng cáo mà bị cáo nêu ra đã kết luận và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Hà Tuấn P; sửa bản án sơ thẩm, giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Bị cáo Hà Tuấn P là trẻ em phạm tội nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bị cáo Hà Tuấn P không tự bào chữa, tranh luận đối đáp gì. Luật sư Trần Công T1 trình bày Luận cứ bào chữa cho bị cáo Hà Tuấn P: Nhất trí quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phát biểu tại phiên tòa đối với kháng cáo của bị cáo Hà Tuấn P, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cho bị cáo Hà Tuấn P được hưởng án treo.
Bị cáo Hà Tuấn P đồng ý với Luận cứ của Luật sư bào chữa cho bị cáo không tranh luận đối đáp gì thêm.
Đối đáp của đại diện VKS: Quan điểm của Luật sư đồng ý với quan điểm của Viện kiểm sát nên Viện kiểm sát không tranh luận đối đáp gì.
Kết thúc tranh luận các bên giữ nguyên quan điểm của mình. Bị cáo Hà Tuấn P nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Hà Tuấn P đã được làm trong thời hạn kháng cáo theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp. HĐXX chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét hành vi của bị cáo Hà Tuấn P thì thấy: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 13/12/2023, Nguyễn Nhật M, sinh ngày 03/02/2009 điều khiển xe mô tô biển số 98B3-xxxxx chở Nguyễn Trường H2, sinh ngày 09/4/2007 và Hà Tuấn P sinh ngày 03/02/2009 đi trên đường M thuộc xã T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang. Trên đường đi thì gặp Đào Tuấn A, sinh ngày 25/8/2008 điều khiển xe máy điện chở Trần Việt T2, sinh ngày 06/11/2008, H2 tưởng người quen nên bảo M và P quay lại. Khi biết không phải người quen, H2 bảo chặn lại để đánh. M đã đi xe lên chặn phía trước xe của Việt A1 và T2, để H2 và P xuống xe, còn M điều khiển xe vòng lại, đỗ xe ở bên kia đường, gần đối diện với nơi đỗ xe của Việt A1, T2 chờ. H2, P đi đến nơi xe của Việt A1 và T2 đỗ, H2 dùng tay đấm một cái vào mặt Tuấn A, P đấm một cái vào mặt T2. Sau đó, P quay sang đấm một cái vào mặt Tuấn A, còn H2 dùng chân đạp một cái vào người T2, làm T2 ngã ra đường, chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 11 Promax của T2 đang cầm trên tay bị rơi xuống đường, trước mặt T2. H2 xông đến dùng tay trái ghi đầu T2, tay phải cầm lấy điện thoại rồi đưa cho P cầm. Lúc này, có người dân chạy ra hô hoán nên H2 và P chạy ra xe mô tô M đang ngồi chờ. Cùng lúc, T2 gọi “Anh oi điện thoại của em” nhưng H2, P không nói gì và cùng M chạy xe đi. H2, P đã đem điện thoại đi bán được 1.200.000 đồng, sử dụng chi tiêu ăn, uống và chia nhau số tiền còn lại. Trị giá chiếc điện thoại và sim điện thoại H2, P chiếm đoạt của T2 được định giá là 8.030.000 đồng (Tám triệu không trăm ba mươi nghìn đồng).
Như vậy, hành vi của bị cáo Hà Tuấn P đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Từ những nội dung trên án sơ thẩm xét xử bị cáo Hà Tuấn P về tội “Cướp tài sản”, là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.
[3] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Hà Tuấn P thấy: Tại phiên tòa, bị cáo Hà Tuấn P chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo nên các vấn đề khác của án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, Hội đồng xét xử phúc thẩm không đặt ra giải quyết.
Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ấn sơ thẩm xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, là có căn cứ.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Ấn sơ thẩm xác định trong quá trình điều tra truy tố xét xử, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả, được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, là có căn cứ. Ngoài các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên, bị cáo P thực hiện hành vi phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, nên bị cáo còn được áp dụng quy định đối với người chưa thành niên phạm tội quy định tại Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo Hà Tuấn P là nguy hiểm cho xã hội,xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần phải xử nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Ấn sơ thẩm xử phạt bị cáo với mức hình phạt 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tủ là tương xứng với hành vi phạm tội đối với bị cáo.
Tại quá trình xét xử phúc thẩm bị cáo Hà Tuấn P xuất trình các tình tiết giảm nhẹ mới đó là Bản nhận xét của BCH Chi đoàn tổ dân phố A phường T, thành phố B đã tham gia sinh hoạt hè từ 01/6/2024 đến 30/8/2024 kết quả hoạt động tốt; bị cáo ủng hộ UBMT tổ quốc tỉnh Bắc Giang 250.000 đồng cho đồng bào bị ảnh hưởng do cơn bão số 3 Yagi gây ra; đơn đề nghị của T3 Trung học cơ sở Trần Nguyên H4 và đơn đề nghị của bà Đỗ Thị H3 đại diện cho cháu Trần Việt T2 là người bị hại đề nghị giảm hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có điều kiện tiếp tục học tập tu dưỡng, cải tạo trở thành người có ích cho xã hội.Đây là các tình mới phát sinh tại cấp phúc thẩm chưa được áp dụng cho bị cáo tại cấp sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét thấy: Tại quá trình xét xử phúc thẩm bị cáo Hà Tuấn P xuất trình các tình tiết giảm nhẹ mới theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, vai trò của bị cáo là người giúp sức trong vụ án, bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng. Do vậy, không cần thiết bắt cách ly khỏi xã hội mà để bị cáo được hướng sự khoan hồng của pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo; không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm nhưng cho hưởng án treo, như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ.
[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do bị cáo Hà Tuấn P là trẻ em phạm tội nên bị cáo được miễn nộp tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Hà Tuấn P; sửa bản án sơ thẩm.
Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 168; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 91; Điều 101; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Hà Tuấn P 02 (Hai) năm 06 (S) tháng tủ về tội “Cướp tài sản” nhưng cho hưởng án treo, phải chịu thời gian thử thách là 05 (Năm) năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể Quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tủ của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015.
2. Án phí: Miễn nộp tiền án phí hình sự phúc thẩm cho bị cáo Hà Tuấn P. 3.Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cướp tài sản số 182/2024/HS-PT
Số hiệu: | 182/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/09/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về