Bản án về tội cướp tài sản số 171/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 171/2023/HS-ST NGÀY 28/12/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 168/2023/TLST - HS ngày 01 tháng 12 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 174/2023/QĐXXST-HS, ngày 14 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Xuân A, (tên gọi khác: Không), S năm 1995; tại huyện Ý, tỉnh Nam Đinh; Nơi cư trú: thôn T, xã Y, huyện Ý, tỉnh Nam Định. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Xuân L và bà: Hoàng Thị N; Vợ, con: không;

Tiền án:

+ Bản án số 15/2015/HSST ngày 10/03/2015, Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Đ xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thử thách 18 tháng , thời gian tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Bản án số 60/2017/HSST ngày 23/11/2017, Tòa án nhân dân huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định xử phạt 07 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”.

Tiền sự: không.

Bị bắt tạm giữ ngày 02/8/2023, đến ngày 10/8/2023 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N cho đến nay (có mặt).

* Bị hại: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1998. Địa chỉ: thôn Đ, xã Y, huyện Ý, tỉnh Nam Định, (vắng mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Bùi Thị Á, sinh năm 2000. Địa chỉ: thôn T, xã Y, huyện Ý, tỉnh Nam Định, (có mặt).

* Người làm chứng: Anh Trần Nhật D, sinh năm 1970. (vắng mặt).

* Người chứng kiến: Ông Vũ Văn Â, sinh năm 1963. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt nhau sau:

Bùi Xuân A mới chấp hành xong hình phạt tù về địa phương. Để có tiền chi tiêu cá nhân, khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 01/08/2023, Bùi Xuân A nảy sinh ý định điều khiển xe mô tô đi lang thang tìm người đi đường có tài sản sơ hở để cướp giật. Bùi Xuân A tháo biển kiểm soát 18D1- xxxxx đang lắp trên xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen bạc bỏ ở nhà đề tránh bị phát hiện (chiếc xe này trước đó Bùi Xuân A mượn của em gái là Bùi Thị Á để làm phương tiện đi lại) và điều khiển xe mô tô đi đến khu vực thị trấn L, huyện Ý, tỉnh Nam Định thì phát hiện thấy chị Nguyễn Thị T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu ghi, biển kiểm soát 18D1-xxxxx đi cùng chiều phía trước. Bùi Xuân A nhìn thấy chị T đi một mình đeo 01 túi xách màu đen bên hông trái, Xuân A điều khiển xe bám theo sau chị Trang mục đ khi chị T đi đến đoạn đường vắng không có người đi lại sẽ giật chiếc túi xách của chị T. Khoảng 12 giờ 05 phút cùng ngày, khi chị T đi qua khu vực cầu sắt thuộc đường L, phố T, phường T, thành phố N, Bùi Xuân A thấy xung quanh không có người đi lại nên đã tăng ga điều khiển xe mô tô áp sát phía bên trái xe mô tô của chị T, Xuân A bỏ tay ga và dùng tay phải nắm lấy quai túi xách màu đen trên vai chị T giật mạnh làm quai túi xách bị đứt, chị T bị mất lái và ngã xe xuống đường. Sau khi Bùi Xuân A giật được chiếc túi xách của chị T, Xuân A để túi xách vào giữa xe rồi tăng ga bỏ chạy về hướng huyện Ý, tỉnh Nam Định. Trên đường đi Bùi Xuân A mở túi xách để kiểm tra bên trong, thấy không có tài sản gì giá trị nên đã ném chiếc túi xách và những đồ vật ở bên trong túi xuống khu vực chân bờ đê sông Đ giáp với tường bao nghĩa trang N1 thôn N, xã Y, huyện Ý, tỉnh Nam Định rồi điều khiển xe đi về nhà.

Sau khi bị giật tài sản, chị Nguyễn Thị T bị ngã cùng với xe xuống đường và bị xây sát hai đầu gối, trầy xước da ở trên môi phải, tay trái bị xây sát; xe mô tô biển kiểm soát 18D1-xxxxx bị hỏng tay phanh trái, tay cầm bên trái bị biến dạng, gãy gương chiếu hậu bên trái, chân trống xe bị biến dạng, vỏ xe mô tô bị xước. Anh Trần Nhật D làm bảo vệ tại chòi gác cầu đường sắt ở phố T, phường T, thành phố N gần khu vực chị T bị cướp giật thấy chị T bị ngã nên ra hỏi thì chị T nói vừa bị một thanh niên đi xe mô tô không gắn biển kiểm soát cướp giật chiếc túi xách chị T đeo trên người và bỏ chạy, sau đó chị T bỏ đi. Anh D1 đã trình báo nội dung sự việc trên đến Công an phường T, thành phố N.

Ngày 02/8/2023 quá trình rà soát xác minh nghi ngờ Bùi Xuân A là đối tượng liên quan đến hành vi cướp giật tài sản, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh N đã triệu tập Bùi Xuân A đến trụ sở làm việc. Tại cơ quan điều tra, Bùi Xuân A đã khai nhận toàn bộ hành vi cướp giật chiếc túi xách của chị Nguyễn Thị T vào khoảng 12 giờ ngày 01/8/2023 tại khu vực phố T, phường T, thành phố N, tỉnh N. Cơ quan điều tra thu giữ của Bùi Xuân A: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda loại wave màu sơn xanh biển kiểm soát 18D1-xxxxx sử dụng làm phương tiện cướp giật tài sản ngày 01/8/2023; 01 điện thoại nhãn hiệu Sony MobileSO-01J màu hồng; 01 mũ bảo hiểm dạng nửa đầu màu đỏ, viền trắng có chừ HEAD Vũ M; 01 mũ lưỡi chai màu ghi có chữ Nike; 01 kính thời trang màu đen có chữ Porsche.

Bùi Xuân A đã đưa Cơ quan điều tra đến khu vực vứt tài sản cướp giật. Qúa trình tìm kiếm cơ quan điều tra phát hiện tại vị trí chân bờ đê sông Đ giáp với tường bao nghĩa trang N1 thôn N, xã Y, huyện Ý, tỉnh Nam Định có 01 chiếc túi xách màu đen chất liệu da không có dây đeo khóa túi xách là loại khóa xoay bằng kim loại màu vàng túi xách có kích thước (20x18x8)cm, bên trong túi xách có 01 airpod 2 màu trắng bên trong có 02 tai nghe được đựng bởi hộp đựng màu đen có hình mặt cười; 01 bút bi màu xanh nhãn hiệu Thiên Long, 01 bút chải mi màu ghi có chữ Klavuu; 01 hộp phấn hình tròn màu xanh có chữ innisfree; 01 bút son màu nâu đen có chữ Tip concealer; Bùi Xuân A xác định những đồ vật tài sản trên đã cướp giật của một người phụ nữ ngày 01/8/2023 tại khu vực phố T, phường T, thành phố N.

Ngày 02/08/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh N đã bàn giao Bùi Xuân A cùng tài liệu vụ án đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N để điều tra theo thẩm quyền.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 64/KL-HĐĐGTS ngày 07/08/2023, Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân thành phố N kết luận: 01 chiếc túi giả da màu đen có khuy cài màu vàng, kích thước (20x18x8)cm trị giá 150.000 đồng; 02 tai nghe AirPods 2 màu trắng kèm cốc xạc tai nghe trị giá 1.800.000 đồng; 01 chiếc ốp tai nghe AirPods 2, màu đen có hình mặt cười trị giá 30.000 đồng; 01 chiếc bút bi màu xanh, nhãn hiệu Thiên Long trị giá 3.000 đồng; 01 hộp phấn màu xanh vỏ ngoài có dòng chữ Innisfree trị giá 190.000 đồng; 01 chiếc bút trải mi màu ghi vỏ ngoài có dòng chữ Klavuu trị giá 130.000 đồng; 01 thỏi kem che khuyết điểm vỏ ngoài có dòng chữ Tip Concealer trị giá 80.000 đồng. Tổng giá trị tài sản sau định giá là 2.380.000 đồng.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 80 ngày 28/08/2023 để giám định tỷ lệ phần trăm tổn hại về sức khỏe của chị Nguyễn Thị T. Ngày 29/8/2023, chị T có đơn đề nghị từ chối giám định tỷ lệ phần trăm tổn hại về sức khỏe của mình, không yêu cầu Bùi Xuân A phải bồi thường. Ngoài ra chị T cũng không yêu cầu cơ quan điều tra định giá thiệt hại của xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu ghi, biển kiểm soát 18D1-xxxxx mà yêu cầu Bùi Xuân A phải đền bù chi phí sửa chữa chiếc xe cho chị T, ngày 15/9/2023 chị Bùi Thị Á là em gái của Bùi Xuân A tự nguyện bồi thường cho chị T số tiền 1.980.000 đồng đề sửa xe. Chị T đã nhận số tiền trên và không có yêu cầu đề nghị gì khác đối với Bùi Xuân A đồng thời có đơn đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho A.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị Nguyễn Thị T 01 chiếc túi giả da màu đen có khuy cài màu vàng, kích thước (20 x 18 x 8 cm); 02 chiếc tai nghe AirPods 2 màu trắng kèm cốc sạc tai nghe; 01 chiếc ốp tai nghe AirPods 2, màu đen có hình mặt cười; 01 chiếc bút bi màu xanh, nhãn hiệu Thiên Long; 01 hộp phấn màu xanh vỏ ngoài có dòng chữ Innisfree; 01 chiếc bút chải mi màu ghi vỏ ngoài có dòng chữ Klavuu; 01 thỏi kem che khuyết điểm vỏ ngoài có dòng chữ Tip C; trả lại cho chị Bùi Thị Á 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda loại wave màu sơn xanh biển kiểm soát 18D1-xxxxx. Trả lại cho Bùi Xuân A (Bùi Thị Á là em gái được Anh ủy quyền nhận lại) 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sony Mobile SO-01J màu hồng; 01 mũ bảo hiểm dạng nửa đầu màu đỏ, viền trắng có chữ IILAD Vũ Minh phía trước; 01 mũ lưỡi trai màu ghi, có biểu tượng ở phía trên và chữ NIKI ở phần lưỡi trai; 01 kính thời trang màu đen có ghi chữ PORSCHE ở phần mắt kính bên trái.

Quá trình điều tra, Bùi Xuân A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

* Tại bản cáo trạng số 166/CT-VKSNDTPNB, ngày 30/11/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố bị cáo Bùi Xuân A ra trước Tòa án nhân dân thành phố N để xét xử về tội “Cướp giật tài sản ” theo điểm d, i khoản 2, khoản 5 Điều 171 Bộ luật hình sự.

* Tại phiên toà :

- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố: bị cáo Bùi Xuân A phạm tội “Cướp giật tài sản ”;

Áp dụng: điểm d, i khoản 2 Điều 171 BLHS; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS; Xử phạt: Bị cáo Bùi Xuân A từ 4 năm 6 tháng tù đến 5 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 02/8/2023.

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng của vụ án đã giải quyết xong trong quá trình điều tra nên không đặt ra vấn đề xem xét tại phiên tòa.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của BLTTHS; nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Bùi Xuân A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Tại phiên tòa: Bị cáo Bùi Xuân A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Chị Bùi Thị Á trình bày: chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda loại wave màu sơn xanh biển kiểm soát 18D 1-xxxxx là tài sản hợp pháp của chị, chị cho bị cáo A mượn chiếc xe mô tô làm phương tiện đi lại vào tháng 6/2023, việc bị cáo A sử dụng chiếc xe mô tô làm phương tiện đi cướp giật tài sản chị Á không biết, số tiền 1.980.000 đồng chị bồi thường cho chị Nguyễn Thị T là do bị cáo tác động nhờ chị bồi thường hộ, số tiền này chị bị cáo và không yêu cầu bị cáo phải trả lại cho chị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với bản tự khai, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, biên bản xem xét dấu vết trên thân thể của bị hại, biên bản làm việc truy tìm vật chứng,biên bản sự việc thu giữ vật chứng, kết luận định giá tài sản số 64/KL-HĐĐGTS ngày 07/8/2023, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người chứng kiến... Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 12 giờ 05 phút ngày 01/8/2023 tại khu vực đường L, phố T, phường T, thành phố N, tỉnh N, Bùi Xuân A có hành vi điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda wave, biển kiểm soát 18D 1-xxxxx áp sát xe mô tô do chị Nguyễn Thị T điều khiển và dùng tay phải giật chiếc túi xách màu đen bên trong có 02 tai nghe AirPods 2 màu trắng kèm cốc xạc tai nghe, 01 chiếc ốp tai nghe AirPoods 2 màu đen có hình mặt cười, 01 chiếc bút bi màu xanh, nhãn hiệu Thiên Long, 01 hộp phấn màu xanh vỏ ngoài có dòng chữ Innisữee, 01 chiếc bút trải mi màu ghi vỏ ngoài có dòng chữ Klavuu, 01 thỏi kem che khuyết điểm vỏ ngoài có dòng chữ Tip Concealer mà chị T đang đeo trên người rồi nhanh chóng tẩu thoát. Hậu quả làm chị T và xe mô tô bị ngã đổ xuống đường, chị T bị thương tích phần mềm, xe mô tô bị hư hỏng nhẹ; Chị T từ chối giám định thương tích và từ chối định giá tài sản đối với thiệt hại của xe mô tô. Tổng trị giá tài sản Bùi Xuân A chiếm đoạt của chị T là 2.380.000 đồng.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản”. Hành vi dùng xe mô tô để thực hiện việc cướp giật túi xách của chị T khi chị T đang đi xe mô tô gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của chị T thuộc trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm. Bản thân bị cáo đã 2 lần bị kết án: ngày 10/03/2015, Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Đ xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thử thách 18 tháng, thời gian tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 23/11/2017, Tòa án nhân dân huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định xử phạt Bùi Xuân A 07 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, ngày 28/4/2023 bị cáo chấp hành xong án phạt tù; tính đến ngày bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới ngày 01/8/2023, bị cáo chưa được xóa án tích đối với 2 lần bị kết án này và lần kết án năm 2017 đã xác định là tái phạm nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm (đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý), do vậy tội phạm và hình phạt được quy định tại theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Điều 171. Tội cướp giật tài sản:

1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

........................

d. Dùng thủ đoạn nguy him;

........................

i. Tái phạm nguy hiểm;

........................

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người khác khi đang điều khiển phương tiện tham gia gia thông, không những thế hành vi của bị cáo còn gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây tâm lý hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc cướp giật tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì lòng tham mà bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý nên cần phải xử lỷ nghiêm minh buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự nhằm răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong nhân dân.

Về nhân thân: bị cáo 2 lần bị kết án về tội xâm phạm sở hữu nên là người có nhân thân xấu.

Về tình tiết tăng nặng: Không có, do các tiền án của bị cáo là tình tiết định khung.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; Sau khi phạm tội bị cáo đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại, bị hại có đơn đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được áp dụng điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, vừa chấp hành xong hình phạt tù về tội Cướp giật tài sản lại tiếp tục thực hiện hành vi về tội đã phạm nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: bị cáo vừa ra tù, làm nghề tự do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[2] Các vấn đề khác:

[2.1] về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng:

- Đối với 01 chiếc túi xách màu đen bên trong túi xách có 02 tai nghe AirPods 2 màu trắng kèm cốc xạc tai nghe, 01 chiếc ốp tai nghe AirPoods 2 màu đen có hình mặt cười, 01 chiếc bút bi màu xanh, nhãn hiệu Thiên Long, 01 hộp phấn màu xanh vỏ ngoài có dòng chừ Innisfree, 01 chiếc bút trải mi màu ghi vỏ ngoài có dòng chữ Klavuu, 01 thỏi kem che khuyết điểm vỏ ngoài có dòng chữ Tip Concealer là đồ vật, tài sản mà Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh N đã thu giữ khi truy tìm tài sản bị cướp giật: quá trình điều tra xác định đây là đồ vật, tài sản hợp pháp của bị hại là chị Nguyễn Thị T đã bị bị cáo cướp giật ngày 01/8/2023 nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã trả lại cho chị T là có căn cứ.

- Đối với các thương tích của chị Nguyễn Thị T bị ngã xe khi chị T bị bị cáo Anh cướp giật tài sản: chị T xác định các thương tích đều ở phần mềm, chị không đi khám hay phải điều trị tại đâu mà chị tự điều trị, các vết thương hiện đã khỏi, không ảnh hưởng đến sức khỏe nên chị từ chối giám định tỷ lệ phần trăm tổn hại sức khỏe và không yêu cầu bị cáo Bùi Xuân A phải bồi thường.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô nhăn hiệu Honda Vision, màu ghi, biển kiểm soát 18D1-xxxxx mà chị T điều khiển khi bị bị cáo cướp giật tài sản: quá trình điều tra chị T xác định chiếc xe bị hư hỏng nhẹ: bị hỏng tay phanh bên trái, tay cầm bên trái bị biến dạng, gương chiếu hậu bên tay trái bị gãy, chân trống bị biến dạng, phần vỏ xe bị trầy xước, chị T yêu cầu bị cáo phải bồi thường tiền sửa xe. Ngày 15/9/2023 chị Bùi Thị Á (em gái bị cáo A) đã tự nguyện bồi thường cho chị T số tiền sửa xe là 1.980.000 đồng, chị T đã nhận số tiền trên và không yêu cầu Cơ quan điều tra định giá thiệt hại của chiếc xe mô tô.

Sau khi nhận lại đồ vật, tài sản và số tiền trên, chị T không có yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda wave màu xanh, biển kiểm soát 18D1-xxxxx thu giữ của bị cáo Bùi Xuân A: quá trình điều tra bị cáo khai nhận sử dụng làm phương tiện để thực hiện hành vi cướp giật tài sản; chiếc xe là tài sản hợp pháp của chị Bùi Thị Á (là em gái ruột của bị cáo A). Chị Á khai nhận bị cáo A mượn chiếc xe mô tô làm phương tiện đi lại vào tháng 6/2023, việc bị cáo A sử dụng chiếc xe mô tô làm phương tiện đi cướp giật tài sản chị Á không biết nên không vi phạm. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N trả lại chiếc xe mô tô cho chị Bùi Thị Á là đúng quy định. Chị Á đã nhận lại chiếc xe mô tô và không có yêu cầu đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sony Mobile SO-01J màu hồng; 01 mũ bảo hiểm dạng nửa đầu màu đỏ, viền trắng có chữ IILAD Vũ Minh phía trước; 01 mũ lưỡi trai màu ghi, có biểu tượng ở phía trên và chữ NIKI ở phần lưỡi trai; 01 kính thời trang màu đen có ghi chữ PORSCHE ở phần mắt kính bên trái thu giữ của bị cáo Bùi Xuân A: quá trình điều tra xác định là tài sản cá nhân của bị cáo A không liên quan đến vụ án. Bị cáo Anh ủy quyền cho chị Bùi Thị Á nhận lại số đồ vật, tài sản trên. Ngày 14/8/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã trả lại số đồ vật, tài sản trên cho chị Bùi Thị Á là đúng quy định.

[2.2] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[3] Từ nhận định trên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh, điều luật áp dụng và hình phạt đối với bị cáo.

[4] Về tố tụng: hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d, i khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

- Tuyên bố: Bị cáo Bùi Xuân A phạm tội “Cướp giật tài sản”.

- Xử phạt: Bị cáo Bùi Xuân A 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 02/8/2023.

- Về án phí: Bị cáo Bùi Xuân A phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 171/2023/HS-ST

Số hiệu:171/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về