TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
BẢN ÁN 161/2022/HS-ST NGÀY 21/09/2022 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 21 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã P, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 120/2022/TLST – HS ngày 19 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 152/2022/QĐXXST – HS ngày 07 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo: Ngô Thành T, sinh năm 1989 tại tỉnh Nam Định. Nơi cư trú: Thôn P, xã TH, thị xã PM, tỉnh B; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa:
9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Quang H, sinh năm 1964 và bà Trần Thị H, sinh năm 1967; vợ là Phan Thị T (đã ly hôn) và có 02 con (con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2013).
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22/4/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã P (có mặt tại phiên tòa).
Bị hại: Bà Phan Thị Thanh T1, sinh năm 1994 Địa chỉ: Khu phố H, phường PH, thị xã PM, tỉnh B.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Em Bùi Thị Phương T2, sinh ngày 01/11/2006 Địa chỉ: khu phố H, phường PH, thị xã PM, tỉnh B.
Ông Nguyễn Thái H, sinh năm 1988 Địa chỉ: khu phố H, phường PH, thị xã PM, tỉnh B. Anh Vũ Phi H1, sinh năm 2000 Địa chỉ: Khu 8, phường TP, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai.
Ông Ngô Quang K, sinh năm 1991 Địa chỉ: Thôn 4, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
Bà Phan Thị T3, sinh năm 1987 Địa chỉ: khu phố P, phường PH, thị xã PM, tỉnh B.
Người làm chứng:
Ông Hồ C, sinh năm 1994 Địa chỉ: Khu phố H, phường PH, thị xã PM, tỉnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Sáng ngày 14/03/2022, Ngô Thành T đến nhà ông Nguyễn Thái H tại khu phố P, phường PH, thị xã PM, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu chơi và mượn xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen-đỏ, BKS 72T1-xxxx của ông H để đi lấy căn cước công dân thì được anh H đồng ý. Trung mở cốp xe và bỏ 01 cuốn sổ hộ khẩu số 02018xxxx do Ngô Thành T làm chủ hộ vào trong cốp rồi điều khiển xe đi đến Công an thị xã P để lấy căn cước công dân nhưng chưa có nên quay về. Trên đường về, T vào cửa hàng điện thoại 117 thuộc khu phố H, phường PH, thị xã PM, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu do bà Phạm Thị Thanh T1 làm chủ để mua điện thoại trả góp nhưng không có căn cước công dân nên Trung không mua được và ra về.
Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, T nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản là điện thoại của cửa hàng 117 nên điều khiển xe mô tô BKS 72T1-xxxx quay lại cửa hàng. Trên đường đi, T dừng lại bốc một nắm cát pha xi măng khô bỏ vào trong túi áo bên trái T đang mặc. Khi đến cửa hàng điện thoại 117, T để xe bên ngoài và vào bên trong cửa hàng, gặp em Bùi Thị Phương T2 đang đứng bán hàng trong tiệm để hỏi mua điện thoại Iphone 12. Em T2 đưa cho T xem 02 (hai) chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh, loại 128 GB và 256 GB. T cầm lên giả vờ kiểm tra máy rồi đặt lại trên mặt tủ kính trong cửa hàng. Lợi dụng lúc em T2 không để ý, T thò tay vào bên trong túi áo, bốc một nắm cát pha xi măng khô mà T chuẩn bị trước đó ném vào vùng mặt của em T2 rồi cầm lấy 02 (hai) chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh, loại 128 GB và 256 GB bỏ chạy ra phía trước cửa hàng. Cùng lúc này, anh Hồ C, là nhân viên bán hàng đuổi theo T. Do bị truy đuổi nên T đã bỏ lại một chiếc xe mô tô BKS 72T1- xxxx tại hiện trường. Sau khi chiếm đoạt được 02 (hai) chiếc điện thoại trên, T mang đến cửa hàng Green Apple ở khu phố 8, phường T, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai do anh Vũ Phi H1 làm chủ, T bán cho anh H1 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh, loại 128GB, hàng 99% với giá 18.000.000 đồng. Số tiền này T đã tiêu xài cá nhân hết. Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh, loại 256GB, hàng 99%, T giữ lại sử dụng cho đến ngày 21/04/2022, T bị bắt khi đang lẩn trốn tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tại kết luận định giá tài sản số 33/KL-HĐ.ĐGTS ngày 01/04/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND thị xã P, kết luận: “+ 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh, loại 128GB, hàng 99% nhập về vào tháng 02/2022, tại thời điểm ngày 14/3/2022 có trị giá: 25.700.000đ (Hai mươi lăm triệu, bảy trăm ngàn đồng).
+ 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh, loại 256GB, hàng 99% nhập về vào tháng 03/2022, tại thời điểm ngày 14/3/2022 có trị giá: 27.500.000đ (Hai mươi bảy triệu, năm trăm ngàn đồng).” (BL: 45).
Về xử lý vật chứng:
+ Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen-đỏ, BKS 72T1- xxxx là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Thái H, việc T sử dụng vào mục đích phạm tội ông H không biết; 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh, loại 256GB là tài sản của bà Phan Thị Thanh T1 nên ngày 05/05/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã P đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 30/QĐ-CQCSĐT-CSHS, trả lại tài sản cho ông H và đại diện hợp pháp của bà T1 là ông Bùi Anh K.
+ Đối với 01 (một) cuốn sổ hộ khẩu số 02018xxxx do Ngô Thành T làm chủ hộ chuyển theo hồ sơ vụ án.
+ Đối với 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh, loại 128GB, Cơ quan CSĐT công an thị xã P đã đưa T đã chỉ dẫn nơi tiêu thụ tài sản nhưng không thu giữ được.
Về trách nhiệm dân sự: Ông Ngô Quang K là em ruột của Ngô Thành T đã bồi thường cho bà Phan Thị Thanh T1 số tiền 53.200.000 đồng. Đại diện theo ủy quyền của bà T1 là ông K đã nhận số tiền trên và có đơn xin bãi nại trách nhiệm dân sự và đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho T; Em Bùi Thị Phương T2 và người giám hộ hợp pháp của em T2 là ông K từ chối giám định thương tích và không yêu cầu bồi thường dân sự (BL: 97, 98).
Tại Cáo trạng số 109/CT-VKS ngày 18/8/2022, Viện kiểm sát nhân dân thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã truy tố Ngô Thành T về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm đ, e khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã P giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Cướp tài sản”; đề nghị áp dụng điểm đ, e khoản 2 Điều 168, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo T từ 08 năm tù đến 09 năm tù. Vật chứng của vụ án và trách nhiệm dân sự đã xử lý xong.
Bị cáo T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng. Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Qua xem xét toàn bộ hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử thấy rằng trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Điều tra và Viện kiểm sát đã tuân thủ nghiêm thủ tục tố tụng trong việc thu thập chứng cứ theo quy định tại các điều 88, 98, 105 Bộ luật Tố tụng hình sự; Quá trình điều tra không có bức cung, nhục hình. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án và tội danh:
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, qua đối chiếu với lời khai tại cơ quan điều tra, kết luận định giá tài sản và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhận thấy phù hợp với nhau, do vậy đủ căn cứ kết luận:
Vào khoảng 15 giờ, ngày 14/03/2022, tại của hàng điện thoại 117 thuộc khu phố H, phường PH, thị xã PM, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu, Ngô Thành T có hành vi dùng hỗn hợp cát và xi măng khô ném vào vùng mặt của cháu Bùi Thị Phương T2 (sinh ngày 01/11/2006) làm cho cháu T2 lâm vào tình trạng không thể chống cự được để chiếm đoạt 02 (hai) chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh, loại 128 GB và 256 GB, trị giá 53.200.000 đồng của cửa hàng điện thoại 117 do bà Phan Thị Thanh T1 làm chủ. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Cướp tài sản” quy định tại điểm đ, e khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự.
[3] Về tính chất, mức độ đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân. Ngoài ra còn tác động xấu đến tình hình trật tự, trị an ở địa phương. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc mới tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo đã bồi thường, khắc phục hậu quả cho người bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại sau khi nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và tiền bồi thường không có yêu cầu thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị cáo 01 (một) cuốn sổ hộ khẩu số 02018xxxx do Ngô Thành T làm chủ hộ do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.
[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm đ, e khoản 2 Điều 168, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự;
Tuyên bố: Bị cáo Ngô Thành T phạm tội “Cướp tài sản”, xử phạt bị cáo Trung 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/4/2022.
2. Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị cáo Ngô Thành T 01 (một) sổ hộ khẩu số 02018xxxx do Công an thị xã P cấp ngày 27/7/2018, chủ hộ Ngô Thành T (vật chứng trên được lưu giữ trong hồ sơ vụ án).
3. Về án phí: Buộc bị cáo Ngô Thành T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh B xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt, thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội cướp tài sản số 161/2022/HS-ST
Số hiệu: | 161/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về