Bản án về tội cướp tài sản số 140/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 140/2023/HS-ST NGÀY 21/12/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 121/2023/TLST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 123/2023/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 11 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 44/2023/HSST- QĐ ngày 14 tháng 12 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Phạm Văn H, sinh ngày 10 tháng 02 năm 2008 (tại thời điểm phạm tội 15 tuổi 03 tháng 03 ngày), tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn L1, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Mạnh H, con bà Nguyễn Thị H; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 16/5/2023 đến ngày 24/5/2023 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

2. Nguyễn Tiến C, sinh ngày 23 tháng 5 năm 2008 (tại thời điểm phạm tội 14 tuổi 11 tháng 20 ngày), tại Hải Phòng. Nơi thường trú: Thôn L1, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Nơi ở hiện nay: Thôn Đ, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Học sinh; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tiến H, con bà Trần Thị Ng; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 16/5/2023 đến ngày 24/5/2023 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Phạm Văn H: Bà Nguyễn Thị H; địa chỉ: Thôn L1, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Tiến C; Ông Nguyễn Tiến H; địa chỉ: Thôn Đ, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị hại: Anh Phạm Minh H, sinh ngày 06/01/2008; địa chỉ: Số nhà 8, ngõ 22, tổ Đ, phường Q, Quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị Ng; địa chỉ: Số nhà 8, ngõ 22, tổ Đ, phường Q, Quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Người bào chữa của các bị cáo Phạm Văn H, Nguyễn Tiến C: Ông Phạm Duy K - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Người bào chữa của bị hại Phạm Minh H: Ông Nguyễn Đức C - Luật sư công ty luật TNHH một thành viên Hoa P, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Đại diện Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng: Ông Nguyễn Quý V, Bí thư Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Đại diện Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng: Bà Nguyễn Thị Kiều O, Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Đại diện Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Trường Trung học phổ thông A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng : Bà Nguyễn Đăng A, Bí thư Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Trường Trung học phổ thông A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Đại diện Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phường Q, Quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng : vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 13/5/2023, Nguyễn Tiến C điều khiển xe điện (không có biển số) đến đón Nguyễn Văn Việt T, sinh năm 2008, trú tại: Thôn P, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng để đi ăn đêm. Khi cả hai đi đến Quốc lộ 10, đoạn thuộc thôn L1, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng thì bị nhóm thanh niên gồm: Lương Minh Trí K, sinh ngày 14/5/2009, trú tại: Thôn C, xã N, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng điều khiển xe mô tô biển số 15B4-X chở Phạm Minh H, sinh ngày 06/01/2008, trú tại: Số nhà 8 ngõ 22 tổ Đ, phường Q, Quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; Nguyễn Hồng L, sinh ngày 01/02/2009, trú tại: Thôn C, xã N, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng điều khiển xe mô tô biển số 15AA-03343 chở Lê Tùng Dương, sinh ngày 10/03/2009, trú tại: Thôn 2 xã B, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; Đỗ Hải B, sinh ngày 07/12/2009, trú tại: Thôn P, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng điều khiển xe mô tô biển số 15AA-301.24 đi theo hướng Quảng Ninh - Hải Phòng mang theo nhiều chai lọ, phóng lợn đến chặn đầu xe, trêu ghẹo, đe dọa nhưng hai bên không xảy ra xô xát. Sau đó, C mượn điện thoại di động của Tiến gọi điện cho Phạm Văn H nhờ đến đánh nhóm của K. H đồng ý, mang theo 01 con đao tự chế ở nhà rồi điều khiển xe mô tô biển số 15C1-X đến khu vực ngã tư Q đón C, sau đó cả hai đi tìm nhóm của K. H đưa đao cho C ngồi sau cầm rồi điều khiển xe đi các tuyến đường quanh khu vực phường Q. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, H gặp K đang điều khiển xe chở H đi ngược chiều nên vòng xe quay lại đuổi theo và hô dừng lại. Khi đuổi đến khu vực Quốc lộ 10 thuộc địa phận thôn Tr, xã L, huyện An Dương, Hải Phòng thì Nguyễn Tiến C cầm đao tay phải chém 01 nhát vào yên xe mô tô biển số 15B4-X; 01 nhát về phía người Phạm Minh H nhưng không trúng. K điều khiển xe quay ngược lại hướng Thái Bình- Quảng Ninh được khoảng 200m thì bị H đuổi kịp. K xuống xe bỏ chạy còn H bị H kéo lại. H và C xông vào đấm đá vào người, mặt của H. Khi thấy xe mô tô biển số 15B4-X đổ dưới đường, đang cắm chìa khóa thì H hô “lên xe lấy xe nó” C đồng ý sau đó điều khiển xe mô tô của H còn H điều khiển xe mô tô biển số 15B4-X vừa chiếm đoạt được về nhà cất giấu. Sau đó C còn nhắn tin cho H bảo thay biển số khác để tránh bị phát hiện. Sáng ngày 14/5/2023 H hỏi mượn biển số của một người có tài khoản facebook là “Tiến Đạt” (chưa xác định được nhân thân lai lịch), Đạt gửi cho H một biển số 15G1-322.65 qua xe ô tô khách. H đã tháo biển số 15B4-X cất giấu trong cốp xe rồi lắp biển số 15G1-322.65 vào chiếc xe mô tô vừa chiếm đoạt được để đi lại.

Ngày 14/5/2023 Phạm Minh H trình báo Công an xã L. Ngày 16/5/2023, Phạm Văn H và Nguyễn Tiến C bị bắt khẩn cấp. H tự nguyện giao nộp 01 xe Honda Airblade đeo biển số 15G1- 322.65, 01 đao bằng kim loại dài 72cm, 01 kiếm bằng kim loại dài 65cm và biển số 15B4-X.

Tại Kết luận định giá tài sản số 46/KL-HĐĐG ngày 23/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện An Dương kết luận: Chiếc xe Honda Airblade biển số 15B4-X trị giá 18.500.000đồng.

Bản Cáo trạng số 121/CT-VKSAD ngày 20/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng truy tố các bị cáo Phạm Văn H, Nguyễn Tiến C về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Phạm Văn H, Nguyễn Tiến C khai nhận như nội dung bản cáo trạng truy tố đã nêu. Các bị cáo xác định hành vi của bản thân vi phạm pháp luật việc điều tra, truy tố, xét xử là đúng pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Người đại diện hợp pháp cho các bị cáo, bị hại, đại diện Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh xã A, xã A, huyện An Dương; đại diện Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Trường Trung học Phổ thông A, huyện Dương, thành phố Hải Phòng đều có quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, cho các bị cáo được cải tạo ngoài xã hội.

Kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội khẳng định việc truy tố các bị cáo Phạm Văn H, Nguyễn Tiến C về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Căn cứ vào tính chất, H quả của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm e khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm d, e khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; các điều 17, 38, 58, 91, 101 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Văn H từ 45 tháng đến 48 tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Căn cứ điểm d, e khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; các điều 17, 38, 58, 91,101 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến C từ 42 tháng đến 45 tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 dao bằng kim loại dài 72cm; 01 kiếm bằng kim loại dài 65 cm.

Các bị cáo được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Tại phiên toà người bào chữa cho các bị cáo Phạm Văn H, Nguyễn Tiến C trình bày căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền lợi cho các bị cáo. Người bào chữa cho các bị cáo đồng ý với tội danh, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với các bị cáo đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương đưa ra tại phiên toà. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào nhân thân, nhận thức, nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của các bị cáo xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, áp dụng mức hình phạt thấp hơn mức đại diện Viện kiểm sát đưa ra tại phiên tòa. Áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo được hưởng án treo.

Người bào chữa cho bị hại trình bày căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền lợi cho bị hại. Người bào chữa cho bị hại đồng ý với tội danh, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với các bị cáo đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương đưa ra tại phiên toà. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào nhân thân, nhận thức của các bị cáo xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện An Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của c ơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định có tội, tội danh và tình tiết định khung hình phạt:

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng, phù hợp với Kết luận định giá, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 13/5/2023, tại thôn Tr, xã L, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, Nguyễn Tiến C và Phạm Văn H có hành vi dùng đao chém, dùng tay chân đánh anh Phạm Minh H để chiếm đoạt chiếc xe mô tô Honda Airblade biển số 15B4-X, trị giá 18.500.000đồng. Chiếc đao bị cáo C dùng để chém anh H được xác định là phương tiện nguy hiểm. Tại thời điểm các bị cáo chiếm đoạt tài sản của anh H, anh H mới 15 tuổi 04 tháng 07 ngày. Hành vi của các bị cáo đã vi phạm tình tiết định khung hình phạt “Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác” và “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi …”. Do vậy, có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo Phạm Văn H, Nguyễn Tiến C đã phạm vào tội “Cướp tài sản”, quy định tại điểm d, e khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng truy tố các bị cáo về tội Cướp tài sản là có căn cứ.

- Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt:

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự xã hội, gây dư luận xấu ở địa phương. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo là ngưởi có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý, nên hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải được xử phạt một mức án nhất định tương xứng với hành vi phạm tội mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo và gia đình đã bồi thường cho bị hại, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Ông Nguyễn Hữu K là ông nội Nguyễn Tiến C là người có công với cách mạng; bị cáo đang theo học tại Trường Trung học phổ thông A, huyện An Dương nên các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt chính: Trên cơ sở đánh giá tính chất, H quả của hành vi phạm tội, nhân thân, vai trò của các bị cáo. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo chưa đủ 18 tuổi cần xem xét đến nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội quy định tại các điều 91, 101 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy, các bị cáo sử dụng xe máy, đao là phương tiện, công cụ nguy hiểm đuổi chém bị hại trên đường, sau khi bị hại dừng xe tiếp tục dùng tay, chân đấm đá chiếm đoạt tài sản của bị hại đã vi phạm hai tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự. Trước tình trạng tội phạm trẻ vị thành niên phạm tội ngày càng gia tăng, phức tạp, liều lĩnh cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc cách ly các bị cáo với xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung. Vì vậy, để đảm bảo mục đích của hình phạt là răn đe, phòng ngừa tội phạm, cần áp dụng Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt đối với các bị cáo để cải tạo, giáo dục các bị cáo.

[7] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo là người dưới 16 tuổi nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[8] Vụ án có đồng phạm, Hội đồng xét xử đánh giá vai trò của các bị cáo như sau: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo H là người đề xuất việc chiếm đoạt tài sản của bị hại, sử dụng tài sản sau khi chiếm đoạt được, chuẩn bị công cụ, là người điều khiển xe máy trở C đuổi theo bị hại cùng với bị cáo C đánh bị hại. Bị cáo C là người rủ bị cáo H đi đánh bị hại là người dùng đao chém vào xe bị hại, dùng tay chân đánh bị hại. Do vậy, Hội đồng xét xử đánh giá vai trò của bị cáo H cao hơn bị cáo C nên bị cáo H phải chịu mức hình phạt cao hơn bị cáo C.

Xét thấy, bị cáo C có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên xử phạt bị cáo ở mức khởi điểm của khung hình phạt là thỏa đáng.

Tại phiên tòa người bào chữa cho các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo được hưởng án treo. Hội đồng xét xử xét thấy như đã phân tích ở trên hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội rất nghiêm trọng, sử dụng các công cụ, phương tiện nguy hiểm vào việc phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận đề nghị của người bào chữa cho các bị cáo đưa ra tại phiên tòa.

- Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và các vấn đề khác:

[9] Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo cùng với gia đình đã bồi thường cho bị hại số tiền 5.000.000đồng, bị hại và đại diện hợp pháp cho bị hại không có yêu cầu gì khác nên không xét.

[10] Về xử lý vật chứng: Chiếc xe mô tô Honda Airbade biển số 15B4- X quá trình điều tra xác định là tài sản của bà Nguyễn Thị Nguyệt. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho bà Nguyệt quản lý, sử dụng. Đối với biển số 15G1-322.65 quá trình điều tra xác định biển số đăng ký tên Nguyễn Trung K, trú tại: Xã M, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Cơ quan điều tra tiếp tục tách ra làm rõ xử lý sau. 01 đao bằng kim loại dài 72cm và 01 kiếm bằng kim loại dài 65 cm thu giữ của Phạm Văn H chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương giải quyết theo thẩm quyền. Xét 01 thanh đao và 01 thanh kiếm trên là phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội không có giá trị sử d ụng nên tịch thu tiêu hủy.

[11] Trong vụ án này còn có hành vi gây rối của nhóm đối tượng Phạm Minh H, Nguyễn Hải B, Lương Minh Trí K, Lê Tùng D và Nguyễn Hồng L. Những đối tượng này chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện An Dương không xử lý hình sự là có căn cứ. Đối với người đã cho H mượn biển số 15G1-322.65, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch. Cơ quan điều tra- Công an huyện An Dương tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

[12] Về án phí: Các bị cáo được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.             

[13] Về quyền kháng cáo đối với bản án: Các bị cáo, người đại diện hợp pháp, người bào chữa của các bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp, người bào chữa của bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm d, e khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các điều 17, 38, 58, 91, 101 Bộ luật Hình sự xử phạt: Bị cáo Phạm Văn H 45 (Bốn mươi lăm) tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày thi hành án được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 16/5/2023 đến ngày 24/5/2023.

Căn cứ điểm d, e khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các điều 17, 38, 58, 91, 101 Bộ luật Hình sự xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tiến C 42 (Bốn mươi hai) tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày thi hành án được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 16/5/2023 đến ngày 24/5/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo Phạm Văn H, Nguyễn Tiến C.

Về biện pháp ngăn chặn: Căn cứ Điều 125 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với các bị cáo Phạm Văn H, Nguyễn Tiến C đến thời điểm đi chấp hành án. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú của các bị cáo không được quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm các bị cáo đi chấp hành án phạt tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 dao bằng kim loại dài 72cm; 01 kiếm bằng kim loại dài 65 cm.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng thể hiện tại biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 24/10/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương, thành phố Hải Phòng và Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương, thành phố Hải Phòng).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 6, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016 các bị cáo Phạm Văn H, Nguyễn Tiến C được miễn án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người đại diện hợp pháp, người bào chữa của bị cáo Phạm Văn H, Nguyễn Tiến C; người bào chữa của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 140/2023/HS-ST

Số hiệu:140/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về