TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 13/2023/HS-PT NGÀY 16/02/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 164/2022/TLPT-HS ngày 26 tháng 10 năm 2022 đối với các bị cáo Trần Ngọc P và Trần Ngọc P1 do có kháng cáo của các bị cáo và bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 187/2022/HS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định.
- Các bị cáo có kháng cáo và bị kháng cáo:
Trần Ngọc P (tên thường gọi: Tý Anh), sinh ngày 24/5/1990 tại thành phố Q, tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Tổ 27, khu phố 5, phường Đ, thành phố Q, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Thợ sắt; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần T, sinh năm: 1966 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm: 1965; vợ: Huỳnh Thị Tố T, sinh năm: 1992; con: Có 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
Trần Ngọc P1 (tên thường gọi: Tý Em), sinh ngày 17/5/1995 tại thành phố Q, tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Tổ 27, khu phố 5, phường Đ, thành phố Q, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Đầu bếp; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần T, sinh năm: 1966 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm: 1965; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
- Những người tham gia tố tụng khác có kháng cáo:
Bị hại: Anh Võ Nhơn Đ; cư trú tại: Số 57/35 đường N, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 02 giờ 00 P1t ngày 05/12/2021, Trần Ngọc P1 đăng bán vật phẩm game Võ Lâm Truyền Kỳ JX1 EfunVN Mobile là “Tê Hoàng Băng Tung Cẩm Uyên” trên Facebook thì có 01 thanh niên sử dụng tài khoản Facebook “Quang Vinh” liên hệ, thỏa thuận mua với giá 9.000.000 đồng và hẹn giao dịch tại ngã 5 Đống Đa, thành phố Q. Sau đó, tài khoản “Quang Vinh” nhắn lại là do bận trông con nên nhờ người khác đến gặp P1 để giao dịch, trả tiền và sau đó, xin số điện thoại di động của P1.
Khoảng 11 giờ 00 P1t cùng ngày, “Quang Vinh” sử dụng số điện thoại 0778369XXX gọi đến số điện thoại 0935289XXX của anh Lê Văn K để đặt xe taxi và hẹn đón ở ngã 5 Đống Đa. Do anh K nghỉ chạy xe nên đưa số điện thoại trên cho bạn là anh Võ Nhơn Đ đến đón khách. Anh Đ gọi điện thoại vào số 0778369XXX thì có 01 thanh niên nói tiếng Bắc, hỏi tên của Đ và bảo đến ngã 5 Đống Đa đứng đợi, sẽ có người dẫn vào nhà xách hành lý rồi chở vợ, con của người này đi thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Sau đó, “Quang Vinh” dùng số điện thoại 0794164XXX gọi cho P1 nói ra ngã 5 Đống Đa để đón Đ. P1 điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 77L1-877.XX đến ngã 5 Đống Đa thì thấy anh Đ đang ngồi trên xe ô tô biển kiểm soát 77A-125.XX nên hỏi “Anh có phải là Đ, em của anh Vinh không?”, anh Đ xác nhận phải. P1 dẫn anh Đ điều khiển xe ô tô đậu tại đường 1-5, thành phố Q rồi dùng xe mô tô chở anh Đ đến nhà của mình ở tổ 27, khu vực 5, phường Đ, thành phố Q.
Khi vào nhà P1, Đ lấy điện thoại gọi lại cho tài khoản “Quang Vinh” nói “Em đến nhà rồi sếp” thì tài khoản “Quang Vinh” yêu cầu anh Đ đưa điện thoại để nói chuyện với P1. Tài khoản “Quang Vinh” nói với P1 “Em giao dịch đồ cho anh rồi thằng em của anh nó đưa tiền cho”. P1 tưởng thật nên đăng nhập vào game và chuyển vật phẩm đã thỏa thuận trước đó cho tài khoản “Quang Vinh”. Sau khi chuyển xong, P1 yêu cầu anh Đ đưa tiền. Anh Đ nói “Anh lên đây chở đồ, chạy taxi, em phải đưa tiền cho anh chứ sao anh đưa cho em”. Sau đó, cả hai xảy ra tranh cãi. P1 gọi lại số điện thoại của “Quang Vinh” nhưng tài khoản đã bị khóa nên quay sang tra hỏi, bắt anh Đ thừa nhận là người thân của “Quang Vinh” và bảo phải trả số tiền 9.000.000 đồng nhưng anh Đ không đồng ý. P1 cho rằng anh Đ lừa đảo, sợ anh Đ bỏ chạy nên P1 đóng cửa cổng lại. Cùng lúc này, anh ruột của P1 là Trần Ngọc P chứng kiến sự việc trên, cho rằng anh Đ thông đồng cùng với “Quang Vinh” nên đã nhờ hàng xóm là bà Trần Thị Phấn gọi điện thoại cho Khu vực trưởng là ông Nguyễn Cảnh Minh báo Công an. Tuy nhiên, ông Minh nói việc mua bán trên mạng thì tự giải quyết nên P vào tra hỏi và bắt anh Đ phải trả tiền cho P1. Anh Đ nói mình không liên quan nên P bực tức, dùng chân đá vào vùng ngực rồi dùng tay bóp bổ, đẩy anh Đ vào tường, bắt anh Đ phải trả tiền. Thấy anh Đ vẫn không đưa tiền thì P xuống nhà bếp, lấy 01 con dao Thái Lan (dài khoảng 21,5cm, lưỡi bằng kim loại sắc nhọn, cán bằng nhựa màu vàng) đem lên đe dọa đâm thì anh Đ lo sợ, giải thích bản thân là người đàng hoàng, lấy giấy tờ tùy thân trong ví da đưa cho P chứng minh nhưng P vẫn không tin. Thấy anh Đ để ví da trên bàn nên P lấy, rút hết tiền bên trong đưa cho P1. P1 đếm được 5.700.000 đồng rồi cất giữ. P hỏi anh Đ có tiền trong tài khoản thì chuyển thêm 3.300.000 đồng cho đủ nhưng anh Đ nói không có nên P nói “Ông về tìm ông kia lấy lại tiền thì lời được 3.300.000 đồng”. Sau đó, cả hai để anh Đ đi ra về và anh Đ đến Công an phường Đống Đa trình bày sự việc.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 187/2022/HS-ST ngày 19/9/2022, Tòa án nhân dân thành phố Q đã căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 168, các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Ngọc P 03 năm 06 tháng tù và xử phạt bị cáo Trần Ngọc P1 03 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 23/9/2022, các bị cáo Trần Ngọc P và Trần Ngọc P1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo; anh Võ Nhơn Đ kháng cáo xin cho các bị cáo Trần Ngọc P và Trần Ngọc P1 được hưởng án treo. Tại phiên tòa, bị cáo Trần Ngọc P, bị cáo Trần Ngọc P1 và anh Võ Nhơn Đ vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo nói trên.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc P, bị cáo Trần Ngọc P1 và anh Võ Nhơn Đ; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với các chứng cứ khác nên có đủ cơ sở xác định:
Vào ngày 05/12/2021, vì cho rằng anh Võ Nhơn Đ đồng lõa với tài khoản “Quang Vinh” lừa đảo chiếm đoạt vật phẩm game của Trần Ngọc P1 nên P1 và anh ruột là Trần Ngọc P đã có hành vi dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc đối với anh Đ, chiếm đoạt số tiền 5.700.000 đồng tại nhà của các bị cáo ở tổ 27, khu vực 5, phường Đ, thành phố Q.
Hành vi các bị cáo cụ thể như sau: P đã có hành vi dùng chân đá vào vùng ngực rồi dùng tay bóp bổ, đẩy anh Đ vào tường, bắt anh Đ phải trả tiền; thấy anh Đ vẫn không đưa tiền thì P xuống nhà bếp, lấy 01 con dao Thái Lan đe dọa đâm làm anh Đ lo sợ, không dám phản kháng và sau đó P lục ví da của anh Đ lấy được số tiền 5.700.000 đồng. P1 đã có hành vi đồng tình với hành vi của P và khi P lục ví da của anh Đ lấy được số tiền 5.700.000 đồng thì P1 là người trực tiếp cất giữ; ngoài ra, trước đó P1 còn có hành vi uy hiếp, buộc anh Đ đưa tiền cho P1.
Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 187/2022/HS-ST ngày 19/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Q đã xét xử các bị cáo Trần Ngọc P và Trần Ngọc P1 về tội “Cướp tài sản” với tình tiết định khung là “Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác” theo điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự là phù hợp.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của các bị cáo Trần Ngọc P và Trần Ngọc P1, kháng cáo xin cho các bị cáo được hưởng án treo của bị hại anh Võ Nhơn Đ, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương.
Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả, bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt và bị cáo P có thời gian phục vụ trong quân ngũ quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Căn cứ tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân các bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo P 03 năm 06 tháng tù và xử phạt bị cáo P1 03 năm tù là phù hợp, dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, có tác dụng răn đe và ngăn ngừa tội phạm.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của các bị cáo Trần Ngọc P và Trần Ngọc P1, không chấp nhận kháng cáo xin cho các bị cáo được hưởng án treo của bị hại anh Võ Nhơn Đ, chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với các bị cáo Trần Ngọc P và Trần Ngọc P1.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì các bị cáo Trần Ngọc P và Trần Ngọc P1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng, anh Võ Nhơn Đ không phải chịu.
[4] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 168; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 58 của Bộ luật Hình sự; Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Ngọc P và Trần Ngọc P1. Không chấp nhận kháng cáo của bị hại anh Võ Nhơn Đ. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
2. Xử phạt bị cáo Trần Ngọc P 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
3. Xử phạt bị cáo Trần Ngọc P1 03 (ba) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
4. Về án phí hình sự phúc thẩm:
4.1. Các bị cáo Trần Ngọc P và Trần Ngọc P1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).
4.2. Anh Võ Nhơn Đ không phải chịu.
5. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cướp tài sản số 13/2023/HS-PT
Số hiệu: | 13/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về