TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 115/2023/HS-ST NGÀY 24/05/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 5 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 121/2023/TLST - HS ngày 08/5/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2023/QĐXXST - HS ngày 08/5/2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1999; Hộ khẩu thường trú: tổ X, phường B, thành phố C, tỉnh H. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Mường; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lâm Đức T1 (đã chết), con bà: Nguyễn Thị T2, sinh năm 1983; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ, con: chưa có. Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị bắt truy nã ngày 18/01/2023, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Số 1 - Công an thành phố Hà Nội.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Bị hại vắng mặt: Anh Bàn Tòn M, sinh năm 2003. Địa chỉ: Xóm U, xã Q, huyên L, tỉnh B.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh M: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1981 – Trợ giúp viên pháp lý nhà nước – Trung tâm trợ giúp pháp lý thành phố Hà Nội. Bà N có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bùi Ngọc T2, Hoàng Văn T4 là các đối tượng không có việc làm, sống lang thang ở Hà Nội và được ở miễn phí tại khu trọ xóm G, ngõ X đường M, phường Đ, quận L, thành phố H. Khoảng đầu tháng 08/2021, Nguyễn Ngọc T (là bạn bè xã hội quen biết với T4) đã đến phòng trọ tại xóm G ở cùng với T4 và T2. Do không có tiền tiêu sài và biết anh Bàn Tòn M là người mới đến khu trọ ở từ tháng 8/2021 nên khoảng 18 giờ ngày 13/8/2021, T bàn với T2 và T4, thống nhất tối cùng ngày sẽ gọi anh M sang phòng trọ để đe dọa, đánh M để buộc anh M đưa tiền rồi chia nhau tiêu sài và cả 3 thống nhất khi nào T ra hiệu thì thực hiện.
Khoảng 21h30 ngày 13/8/2021, T, T2 và T4 có gặp Nguyễn Phương B, sinh năm: 1996 – NKTT: số nhà X, ngõ Y, phường P, quận Đ, thành phố H, mọi người thường gọi B là “chị T6”) tại khu trọ Do B là bạn quen biết với T4 và T2 nên đã rủ B vào phòng trọ ăn uống cùng, B đồng ý và đưa cho T 50.000 đồng để đi mua rượu và cùng nhau ăn uống tại phòng trọ của T2 và T4. Đến khoảng 23h30 cùng ngày, theo như đã thống nhất bàn bạc từ trước,T ra hiệu bảo T4 gọi M sang phòng trọ để nói chuyện, T4 hiểu ý đứng dậy đi sang phòng trọ của anh M gọi M nhưng anh M không mở cửa nên đã quay về nói lại với T. Thấy vậy, T ra hiệu cho T2 đi cùng để bắt M sang phòng, T2 hiểu ý nên đã cầm theo một chiếc chảo rán bằng kim loại đi cùng T4 tiếp tục sang gọi anh M. Khi sang phòng anh M, T2 và T4 đập cửa và nói to: “Có sang không hay muốn mạnh tay”. Anh M do sợ nên đã đi cùng T2 và T4 về phòng trọ của T2 để gặp T.
Khi anh M vào trong phòng thì T2 đóng cửa lại, T bảo anh M còn tiền không, cho vay 200.000 đồng để mua “cần sa” hút. Anh M nói “em còn đúng 120.000 đồng” thì ngay lập tức T lao vào vừa chửi, vừa dùng tay, chân đấm, đá vào đầu và lưng anh M. T4 sau đó cũng dùng tay ghì đầu anh M xuống đất, dùng cùi chỏ, dây sạc điện thoại và dây lưng đánh vào lưng anh M; T2 cũng dùng chảo đánh 01 phát vào đầu anh M. T sau đó lấy ra một con dao (loại dao ngọt hoa quả dài khoảng 25cm) chuẩn bị từ trước để dưới chiếu, T4 thấy vậy lao vào lôi tay trái của anh M ra và đưa ngón út đặt xuống chiếu để T đưa dao vào dọa cắt ngón tay của anh M, anh M hoảng sợ xin T và T4 tha cho. Lúc này, T nói: “điện thoại mày đâu”, anh M nghe thấy T hỏi vậy và do mới đến ở trọ và bị đông người đánh đập, đe dọa nên sợ đã lấy chiếc điện thoại Iphone X của mình từ trong túi quần ra để xuống chiếu, T lại hỏi: “còn tiền đâu”. Anh M nói tiền để ở phòng trọ và bảo cho về phòng lấy, nhưng T không cho anh M về. Lúc này, T yêu cầu anh M thoát tài khoản Icloud và cung cấp cho T mật khẩu điện thoại. Anh M sợ lại bị đánh nên đã làm theo yêu cầu của T. Sau khi anh M thoát tài khoản Icloud và cung cấp mật khẩu máy điện thoại cho T, T đã cầm điện thoại rồi dặn T4 và T2 trông anh M, không được đánh, khi nào T về thì cho anh M về. Sau đó, T bảo Nguyễn Phương B chở T đi ra ngoài để gặp bạn T (B không biết là ai, ở đâu). Trên đường đi T đã tháo sim điện thoại Iphone X lấy được của anh M vứt bỏ dọc đường (hiện không xác định được địa điểm). B chở T đi đến khu vực đường Lạc Long Quân gần chợ Bưởi, Hà Nội, thì T xuống xe bảo B đi về còn T ở lại gọi bạn tên “Q” (hiện không xác định được tên tuổi, địa chỉ) để nhờ Q tìm chỗ bán điện thoại cho T. Khi Q đến đón T, do đêm muộn nên không còn cửa hàng nào mở, Q chở T về phòng trọ của Q ở khu vực Định Công gần Bến xe Giáp Bát, quận Hoàng Mai, Hà Nội để ngủ. Đến sáng ngày 14/8/2021,T biết T4 và T2 đã bị bắt nên đã không quay về phòng trọ của T4 và nhờ Q chở đến khu Bến xe Giáp Bát, quận Hoàng Mai, Hà Nội (không xác định được địa chỉ) để bán chiếc điện thoại Iphone X với giá 2.200.000 đồng, số tiền trên T đã sử dụng tiêu sài cá nhân hết trong quá trình bỏ trốn. B sau khi chở T đi thì quay về phòng trọ thấy cửa phòng trọ khép, T4 và anh M đang ngồi nói chuyện trong phòng nên B vào phòng và đi ngủ. Đến khoảng 7h ngày 14/8/2021, B dậy đi ra ngoài vẫn thấy anh M ở tại phòng nhưng khi B quay về thì không thấy anh M ở đó nên B đi về nhà, sau đó do nhận thức được sự việc vi phạm nên B đã đến Công an phường để khai báo việc đã chứng kiến.
Đến sáng ngày 14/8, T4 và T2 không thấy T quay về phòng trọ nên đã cho anh M đi về phòng. Anh Bàn Tòn M sau đó đã đến Công an phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội trình báo sự việc.
Nguyễn Ngọc T sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã bỏ trốn nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định tách vụ án hình sự đối với Nguyễn Ngọc T.
Ngày 02/12/2021, Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm đã ban hành Bản kết luận điều tra số 359 đề nghị truy tố đối với Bùi Ngọc T2 và Hoàng Văn T4 về tội Cướp tài sản, quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự.
Ngày 30/12/2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm ban hành Cáo trạng truy tố đối với Bùi Ngọc T2, Hoàng Văn T4 về tội Cướp tài sản, quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự.
Ngày 25/02/2022, Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm đã đưa vụ án ra xét xử và tuyên phạt Hoàng Văn T4 07 năm 06 tháng tù, Bùi Ngọc T2 07 năm tù về tội Cướp tài sản theo Điều 168 Bộ luật Hình sự và đã quyết định xử lý vật chứng, quyết định về việc bồi thường dân sự cho người bị hại và dành quyền khởi kiện cho Bùi Ngọc T2 và Hoàng Văn T4 đối với T liên quan đến yêu cầu bồi thường dân sự bằng vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.
Ngày 18 tháng 4 và ngày 20 tháng 4 năm 2022, Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã đối với Nguyễn Ngọc T và ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự đối với bị can số 01, Quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can số 03 đối với Nguyễn Ngọc T về tội Cướp tài sản theo Điều 168 Bộ luật Hình sự.
Đến ngày 18/01/2023, Nguyễn Ngọc T bị Công an phường Mỹ Đình 2 bắt theo Quyết định truy nã số 03 ngày 18/4/2023 của Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Ngọc T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Vật chứng thu giữ: 01 dây sạc điện thoại màu trắng, dài khoảng 90cm; 01 dây thắt lưng màu đen, dài khoảng 120cm, có mặt bằng kim loại; 01 con dao loại dao gọt hoa quả dài khoảng 25cm, có cán bằng nhựa màu tím; 01 chiếc chảo bằng kim loại có đường kính 20cm, màu đen, tay cầm bằng nhựa.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 353 ngày 17/8/2021 của Hội đồng định gái tài sản trong Tố tụng hình sự quận Nam Từ Liêm, xác định: 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone X, 64GB, màu đen, thời điểm mua: 09/7/2021 (chất lượng 99%), đã qua sử dụng, trị giá: 7.000.000 đồng; 01 sim điện thoại, thuê bao số 083xxx4211, trị giá: 25.000 đồng.
Đối với Nguyễn Phương B đã trực tiếp chứng kiến việc T, T4 và T2 đe dọa và đánh anh M để chiếm đoạt chiếc điện thoại Iphone X nhưng do B không biết trước sự việc cũng như không tham gia bàn bạc và do sợ cũng bị đánh nên không dám can ngăn. Sau khi B chở T đi và đi về, B đã nhận thức thấy sự việc của T, T4 và T2 đánh và chiếm đoạt điện thoại của anh M là vi phạm pháp luật nên đã tự đến Cơ quan Công an để khai báo nên Cơ quan điều tra không đề cập để xử lý.
Đối với hành vi của T, T2 và T4 đã đánh gây thương tích cho anh Bàn Tòn M, do anh M khai chỉ bị xây sước nhẹ phần mềm nên anh M không yêu cầu đi giám định thương tích. Sau khi sự xảy ra, anh M đã trình báo sự việc với Cơ quan điều tra nhưng sau đó vắng mặt tại địa phương. Quá trình điều tra và phục hồi điều tra vụ án, Cơ quan điều tra đã nhiều lần mời anh M lên làm việc để làm rõ về hành vi bắt, giữ người của T, T2, T4 và làm rõ yêu cầu về dân sự nhưng anh M đã không đến làm việc theo giấy mời. Xác minh tại địa phương, xác định hiện anh M đi đâu, làm gì gia đình và chính quyền địa phương không biết nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để làm rõ và kết luận về hành vi bắt giữ người trái pháp luật của T2, T4 và T. Khi nào anh M lên làm việc sẽ tiếp tục làm rõ và xử lý sau.
Bản cáo trạng số 118/CT-VKSNTL ngày 04/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc T về tội: “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo Nguyễn Ngọc T khai nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo thừa nhận đã có hành vi sử dụng dao, dây sạc điện thoại, dây lưng, chảo để đánh anh M sau đó chiếm đoạt chiếc điện thoại Iphone X64 GB màu đen và 01 sim điện thoại của anh M.
Đại diện Viện kiểm sát trong phần luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố như bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại điểm d, khoản 2, Điều 168, Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc T từ 08 năm tù đến 09 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/01/2023.
Xử lý vật chứng: Đã được xử lý tại bản án số 17/2022 ngày 25/02/2022 của TAND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội nên không đề cập.
Về dân sự: Đã được xử lý tại bản án số 17/2022 ngày 25/02/2022 của TAND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội nên không đề cập.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại phát biểu ý kiến: Đồng ý với cáo trạng truy tố và bản luận tội của Đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định của pháp luật xét xử bị cáo đúng người đúng tội, xử lý nghiêm minh, ra một bản án hợp tình hợp lý đủ sức giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Lời nói sau cùng: Bị cáo Nguyễn Ngọc T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm trở về đoàn tụ với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định pháp luật.
[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người liên quan và các biên bản, tài liệu khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 13/8/2021, tại khu trọ xóm G, phường Đ, quận L, thành phố H, Nguyễn Ngọc T cùng Bùi Ngọc T2 và Hoàng Văn T4 (đã bị xét xử ngày 25/2/2022) đã có hành vi sử dụng dao, dây sạc điện thoại, dây lưng, chảo để đánh anh Bàn Tòn M sau đó chiếm đoạt chiếc điện thoại Iphone X 64GB màu đen, trị giá 7.000.000 đồng và 01 sim điện thoại số thuê bao 083xxx4211, trị giá 25.000 đồng của anh Bàn Tòn M.
Tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 7.025.000 đồng.
Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Ngọc T đã phạm tội Cướp tài sản, tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Ngọc T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội thể hiện bị cáo coi thường pháp luật nên phải có hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tính răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Tuy nhiên, khi lượng hình phạt, HĐXX xét thấy: tại phiên tòa bị cáo T thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1, Điều 51 BLHS.
Đối với Nguyễn Phương B đã trực tiếp chứng kiến việc T, T4 và T2 đe dọa và đánh anh M để chiếm đoạt chiếc điện thoại Iphone X nhưng do B không biết trước sự việc cũng như không tham gia bàn bạc và do sợ cũng bị đánh nên không dám can ngăn. Sau khi B chở T đi và đi về, B đã nhận thức thấy sự việc của T, T4 và T2 đánh và chiếm đoạt điện thoại của anh M là vi phạm pháp luật vì vậy đã tự đến Cơ quan Công an để khai báo nên Cơ quan điều tra không đề cập để xử lý.
Đối với hành vi của T, T2 và T4 đã đánh gây thương tích cho anh Bàn Tòn M, do anh M khai chỉ bị xây sước nhẹ phần mềm nên anh M không yêu cầu đi giám định thương tích. Sau khi sự xảy ra, anh M đã trình báo sự việc với Cơ quan điều tra nhưng sau đó vắng mặt tại địa phương. Quá trình điều tra và phục hồi điều tra vụ án, Cơ quan điều tra đã nhiều lần mời anh M lên làm việc để làm rõ về hành vi bắt, giữ người của T, T2, T4 và làm rõ yêu cầu về dân sự nhưng anh M đã không đến làm việc theo giấy mời. Xác minh tại địa phương, xác định hiện anh M đi đâu, làm gì gia đình và chính quyền địa phương không biết nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để làm rõ và kết luận về hành vi bắt giữ người trái pháp luật của T2, T4 và T. Khi nào anh M lên làm việc sẽ tiếp tục làm rõ và xử lý sau.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 174 Bộ luật hình sự, bị cáo Nguyễn Ngọc T còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung, tuy nhiên bị cáo là đối tượng không nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về dân sự: Đã được xử lý tại bản án số 17/2022 ngày 25/02/2022 của TAND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội nên không đề cập.
[7] Xử lý vật chứng: Đã được xử lý tại bản án số 17/2022 ngày 25/02/2022 của TAND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội nên không đề cập.
[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Ngọc T phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
[9] Về kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội “Cướp tài sản”.
Áp dụng: Điểm d, khoản 2, Điều 168; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Khoản 2 Điều 136, Điều xxx, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc T 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/01/2023.
Xử lý vật chứng: Đã được xử lý tại Bản án số 17/2022 ngày 25/02/2022 của TAND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội nên HĐXX không xem xét.
Về dân sự: Đã được xử lý tại Bản án số 17/2022 ngày 25/02/2022 của TAND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội nên HĐXX không xem xét.
Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tội cướp tài sản số 115/2023/HS-ST
Số hiệu: | 115/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về