Bản án về tội cướp tài sản số 104/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 104/2023/HS-ST NGÀY 16/11/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 97/2023/TLST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 132/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn L; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 10/5/2002 tại huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An; Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Xóm 6, xã T, huyện Đ, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: Lớp 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn L1 (Đã chết) và bà Nguyễn Thị G (Sinh năm 1983); Vợ con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 30/ 3/2018 Nguyễn Văn L bị Tòa án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng có thời hạn 20 tháng theo Quyết định số 01/QĐ-TA. Nguyễn Văn L đã chấp hành xong quyết định vào ngày 03/12/2019.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/09/2023 đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

Bị hại: Đinh Văn T, sinh năm 2006.

Địa chỉ: Xóm 8, xã Tr, huyện Đ, tỉnh N. Có mặt

Người làm chứng:

1. Họ và tên: Trần Thị S, sinh năm 1964. Địa chỉ: Xóm V, xã H, huyện Đ, tỉnh N.

2. Họ và tên: Nguyễn Văn H, sinh năm 2004. Địa chỉ: Xóm 6, xã Tr, huyện Đ, tỉnh N.

3. Họ và tên: Nguyễn Văn H, sinh năm 2008.Địa chỉ: Xóm 4 mới, xã Tr, huyện Đ, tỉnh N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 02/2023 đến tháng 06/2023, Nguyễn Văn L và anh Đinh Văn T, có hộ khẩu cư trú tại xã Tr, huyện Đ, tỉnh N sinh sống và làm việc cùng với nhau tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong quá trình sinh sống, L và T cùng tiêu xài tiền chung của nhau. Đến giữa tháng 6/2023, T có mượn L số tiền 700.000 đồng (Bảy trăm nghìn đồng) để mua vé xe đi về quê (T đã trả cho L). Sau khi về quê, do không có tiền tiêu xài cá nhân và không có công việc ổn định nên L thường xuyên gọi điện cho T để hỏi về số tiền tiêu xài chung trước đó tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng T không nghe máy.

Vào khoảng 16 giờ ngày 05/9/2023, Nguyễn Văn L đi đến quán game “Bá V” do anh Nguyễn Bá V, sinh năm 1963 là chủ sở hữu thuộc xóm V, xã H, huyện Đ, tỉnh N để chơi game. Tại đây, L gọi điện thoại cho em trai L là Nguyễn Văn H, sinh năm 2004 đến quán game “Bá V” cùng để chơi game. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, L đang ngồi chơi game thì thấy anh Đinh Văn T cũng đến tại quán. Do hết tiền tiêu xài cá nhân, nên L liền nảy sinh ý định sẽ lấy tiền của T để tiêu xài. L liền nói với Tr “Tiền tau mi định tính răng đó T, mi đi ra đây”. Đồng thời, L dùng tay trái quàng vòng lên cổ của T và kéo T lại trước cửa nhà vệ sinh của quán Game rồi thả T ra. Tại đây, T đứng sát xe mô tô đang dựng gần cửa nhà vệ sinh, còn L đứng đối diện T và nói “Dừ răng, mi có định trả tiền cho tau không để tau biết”. T nói “Em không nợ tiền chi anh nựa, tiền hai triệu em trả cho anh trong Sài gòn rồi, còn tiền năm triệu em cắm điện thoại đưa anh đi ăn thì anh tính răng đó”, lúc này L dùng tay trái tát vào mặt của T và nói “Mi dừ tính răng, tiền hai triệu mi mần sinh nhật cho tau, còn tiền mi cắm điện thoại tau không có ở đó không biết”. L nói “Dừ tau không biết, mi kiếm tiền trả cho tau”. Sau đó, L dùng tay không đánh vào đầu và mặt của T. Thấy vậy, bà Trần Thị S (Vợ của Nguyễn Bá V) đi đến và nói “Có chuyện chi rứa bây”. L nói “không có chuyện chi”. Sau đó, L dùng tay trái quàng vào cổ của T và kéo T đi ra cổng chợ “Th” gần đó. Lúc này, L thấy Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn H đi xe đến quán game.

Lúc L kéo T ra đến cổng chợ thì L dùng tay trái quàng cổ ghì đè T xuống và cúi xuống dùng tay phải nhặt một viên gạch lên và nói với T “mi có tin tau đập mi chết đây luôn không”. Nghe L nói, T hoảng sợ và nói “Em tin, để em gọi mẹ lên”. Liền sau đó, T lấy điện thoại từ trong túi quần của T ra gọi điện cho mẹ T nói “mẹ ơi lên quán nét V Sâm ở Hiến Sơn con có chuyện”. L lúc này đang dùng tay trái kẹp cổ, tay phải vẫn đang cầm viên gạch đe doạ T. Sau đó, L thấy H đi từ quán game lại chỗ L nên L nói với H “Mi có con dao mô đó không đưa tau mượn đâm thằng ni chết đây cấy” nhưng H không thực hiện theo yêu cầu của L. Sau đó, T nói “để em gọi bố lên”. L thấy T cầm điện thoại lên và gọi cho ai nên L nói “Mi gọi cho ai đó”. Lúc này, L nảy sinh ý định sẽ giật lấy chiếc điện thoại của T đang cầm trên tay nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. L thả viên gạch xuống rồi dùng tay phải giật điện thoại trong tay của T (lúc này, tay trái L đang kẹp cổ T, tay phải thả viên gạch xuống và dùng tay phải giật lấy điện thoại của T). Sau khi L giật được điện thoại của T thì T có với tay giằng lại nhưng bị L hất tay ra. Sau đó, L cầm điện thoại và đi về quán game “Bá V”, vừa đi vừa nói với T: “nói người đem tiền lên mà lấy điện thoại về”. Sau đó, T đi về nhà anh Đinh Văn N trú tại xã Hiến Sơn, huyện Đô Lương (là chú ruột của T). Còn L đi vào quán game một lúc thì đưa điện thoại cho Hồng và nói “cầm đó tý mẹ thằng T lên nói mẹ hắn trả tiền rồi đưa điện thoại cho mẹ hắn”. Tiếp sau đó L nhờ Hào chở đi lên đập ở xóm Lương Thiện, xã Hiến Sơn thì đi về còn L ngồi lại một mình đến khoảng 18 giờ cùng ngày thì xin ngồi xe người đi đường lên xã Thượng Sơn và ngồi ngoài đường đến khoảng 23 giờ ngày 05/9/2023 thì L tiếp tục xin ngồi xe người đi đường đến nhà nghỉ “H” ở xã Quang Sơn để thuê phòng ngủ. Khoảng 12 giờ 40 phút ngày 06/9/2023, lúc L đang nằm ở nhà nghỉ “H” thì có công an xã Hiến Sơn đến mời L về làm việc tại ban công an xã Hiến Sơn.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 51/KLĐG ngày 11 tháng 09 năm 2023, của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự của UBND huyện Đô Lương kết luận:

01(một) chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu VIVO màu xanh có số Imel 1: 86174605210141; số Imel 2: 861746050210158, bên trong có gắn thẻ sim số thuê bao 03259A41 của anh Đinh Văn T đã qua sử dụng có giá trị là: 3.150.000 đồng.

Bản cáo trạng số 107/CT-VKSAD ngày 26 tháng 10 năm 2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về tội danh và hình phạt: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn L từ 07 năm tù đến 07 năm 06 tháng tù về tội: “Cướp tài sản”

+ Về vật chứng vụ án:

- Thu giữ từ anh Nguyễn Văn H, sinh ngày 22/8/2004 trú tại xóm 6, xã Trù Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An: 01(một) chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu VIVO màu xanh có số Imel 1: 86174605210141; số Imel 2: 861746050210158, bên trong có gắn thẻ sim số thuê bao 03259A41 đã qua sử dụng. Hiện chiếc điện thoại này đã được trả lại cho bị hại là anh Đinh Văn T theo đúng quy định của pháp luật. Anh Đinh Văn T không có yêu cầu đề nghị gì.

- Thu giữ 01(một) USB nhãn hiệu KINGTON DTSE9 16 Gb màu trắng bạc L lại dữ liệu Camera tại hiện trường vào ngày 5/9/2023, được đưa vào hồ sơ vụ án.

- Áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01(một) viên gạch màu xám, kích thước (9x10x5)cm.

+ Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Đinh Văn T yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn L phải bồi thường thiệt hại về tinh thần số tiền là 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng). Bị hại xác nhận đã nhận được bồi thường, không có yêu cầu gì khác về dân sự.

+ Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng, với vật chứng thu giữ, với kết luận giám định và với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ ngày 05/9/2023, tại xóm Văn Đồng, xã Hiến Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, do nghi ngờ Đinh Văn T, sinh năm 2006, trú tại xóm 8, xã Trù Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An chưa trả đủ tiền cho mình nên Nguyễn Văn L, sinh ngày 10/5/2002, trú tại xóm 6, xã Trù Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An đã có hành vi sử dụng vũ lực, đánh vào đầu và mặt của T, đe dọa sử dụng vũ lực và sử dụng viên gạch là hung khí nguy hiểm nhằm chiếm đoạt tài sản của T, tài sản trị giá là 3.150.000 đồng (Ba triệu một trăm năm mươi nghìn đồng). Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Cướp tài sản, quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự như cáo trạng truy tố là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng đã xâm hại đến tính mạng, sức khỏe và quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an trên địa bàn, gây hoang mang trong đời sống nhân dân. Do vậy việc đưa vụ án ra xét xử và áp dụng xử phạt nghiêm và cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục đối với bị cáo nói riêng và công tác phòng ngừa tội phạm trên địa bàn nói chung.

Xét bị cáo Nguyễn Văn L có nhân thân xấu, năm 2018 bị Tòa án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng có thời hạn 20 tháng theo quyết định số 01/QĐ-TA về tội Trộm cắp tài sản, Gây rối trật tự công cộng, tuy bị cáo đã chấp hành xong hình phạt vào ngày 03/12/2019 và được xoá án tích nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng đạo đức phẩm chất, làm ăn lương thiện nay bị cáo tiếp tục phạm rất nghiêm trọng tội chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật cần phải xử phạt nghiêm.

Tại thời điểm phạm tội bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: Sau khi phạm tội bị cáo đã bồi thường cho bị hại Đinh Văn T khoản tiền khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra với số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải. Đó là các tình tiết quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Trong vụ án này có anh Nguyễn Văn H và anh Nguyễn Văn H có đi cùng Nguyễn Văn L ra cổng chợ Thanh thuộc khu vực xã Hiến Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Sau khi chiếm đoạt tài sản của Đinh Văn T, Nguyễn Văn L có đưa tài sản cho Nguyễn Văn H cầm. Tuy nhiên Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn H không biết được mục đích và cũng tham gia thực hiện cùng với bị cáo L nên không cấu thành tội phạm.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính thì bị cáo Nguyễn Văn L còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên qua xác minh của Cơ quan CSĐT Công an huyện Đô Lương, bản thân bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có tài sản trị giá lớn và thu nhập không ổn định. Cho nên miễn hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo Nguyễn Văn L đã bồi thường cho anh Đinh Văn T số tiền là 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), bị hại không yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Về vật chứng:

[7.1] Đối với 01(một) chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu VIVO màu xanh có số Imel1:86174605210141; số Imel 2:

861746050210158, bên trong có gắn thẻ sim số thuê bao 03259A41 đã qua sử dụng. Hiện chiếc điện thoại đã được trả lại cho bị hại Đinh Văn T nên miễn xét.

[7.2] Đối với 01(một) USB nhãn hiệu KINGTON DTSE9 16 Gb màu trắng bạc L lại dữ liệu Camera tại hiện trường vào ngày 5/9/2023 là tài liệu chứng cứ L trữ trong hồ sơ vụ án theo quy định pháp luật.

[7.3] Đối với 01(một) viên viên màu xám, kích thước(9x10x5) cm là công cụ phạm tội không có giá trị, căn cứ vào điểm c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu và tiêu huỷ.

[8] Về án phí: Căn cứ điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Các đề nghị của Viện kiểm sát Đô Lương đều phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Cướp tài sản” Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn L 07 ( Bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo ngày 06/09/2023 Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về bồi thường dân sự: Không xét

3. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu và tiêu hủy 01(một) viên ghạch màu xám, kích thước(9x10x5) cm.

(Vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đô Lương đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/10/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đô Lương).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội về quy định về mức thu, miễn, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Toà án, buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 104/2023/HS-ST

Số hiệu:104/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đô Lương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về