Bản án về tội cướp tài sản số 08/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CN THƠ

BẢN ÁN 08/2024/HS-ST NGÀY 25/01/2024 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 219/2023/TLST-HS, ngày 08 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2024/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2024 đối với các bị cáo:

1/ PHAN MINH T; Tên gọi khác: B; Sinh năm 1992; Nơi sinh: An Giang; Nơi thường trú: ấp V, xã V, huyện C, tỉnh An Giang; Nơi ở hiện nay: như trên; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha ruột: Phan Văn T (chết); Mẹ ruột: Bùi Thị Hận E, sinh năm 1958 (sống); A, em ruột có 03 người (đã mất 01 người), người lớn sinh năm 1980, nhỏ sinh năm 1981; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Chưa.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/12/2022 chuyển tạm giam ngày 04/01/2023. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ, Công an quận N. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2/ TRẦN MẠNH C; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1996; Nơi sinh: An Giang; Nơi thường trú: số D khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang; Nơi ở hiện nay: như trên; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha ruột: Trần Văn T1 (chết); Mẹ ruột: Phan Thị T2 (chết); A, em ruột có 01 người sinh năm 1999; Vợ: Nguyễn Thị Huỳnh N, sinh năm 1999 (đã ly hôn); Bị cáo có 01 người con sinh năm 2015; Tiền án: Không; Tiền sự: Chưa Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 21/7/2023. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ, Công an quận N. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3/ NGUYỄN VĂN K; Tên gọi khác: D; Sinh năm 1995; Nơi sinh: An Giang; Nơi thường trú: số E Tổ A C, khu V, phường B, quận B, thành phố Cần Thơ; Nơi ở hiện nay: Như trên; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha ruột: Nguyễn Văn B1, sinh năm 1976 (sống); Mẹ ruột: Nguyễn Thị Thùy T3, sinh năm 1975 (sống); A, em ruột có 02 người, lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2012; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt truy nã, bị tạm giam ngày 28/8/2023. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận N. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

4/ PHAN HOÀNG V; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1980; Nơi sinh: An Giang; Nơi thường trú: ấp P, xã B, huyện C, tỉnh An Giang; Nơi ở hiện nay: số A L, khóm Đ, phường Đ, thành phố L, tỉnh An Giang; Nghề nghiệp: Kinh doanh dịch vụ M; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha ruột: Phan Hoàng V, sinh năm 1943 (chết); Mẹ ruột: Nguyễn Thị C, sinh năm 1961 (sống); A, em ruột có 02 người, 01 người sinh năm 1983 và 01 người chưa rõ năm sinh; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Chưa;

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 21/7/2023. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận N. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Trần Trung N1, sinh năm 1997;

Địa chỉ: ấp L, xã L, huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phan Kim L, sinh năm 1983.

Địa chỉ: ấp P, xã B, huyện C, tỉnh An Giang.

- Người bào chữa cho bị cáo Trần Mạnh C1: Luật sư Nguyễn Như H - Văn phòng L1 thuộc Đoàn Luật sư thành phố C.

Địa chỉ: Số D T, phường C, quận C, thành phố Cần Thơ.

- Người bào chữa cho bị cáo Phan Hoàng V1: Luật sư Trịnh Hữu B2 - Văn phòng L2 thuộc Đoàn Luật sư thành phố C Địa chỉ: Số A T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Anh Trần Trung N1 và Phan Minh T4 (tên gọi khác B) cùng là nhân viên làm việc tại cơ sở massage S, địa chỉ: số A L, Phường Đ, thành phố L, tỉnh An Giang do Phan Hoàng V1 làm chủ. Vào khoảng 12 giờ ngày 25/12/2022 do xảy ra mâu thuẫn với V1 và T4, nên anh N1 xin nghỉ làm, trước khi đi anh N1 có báo cho V1 biết. Đến khoảng 14 giờ ngày 25/12/2022, T4 về đến chỗ làm thì phát hiện bị tài sản là mất đôi dép và chai nước hoa, nên cho rằng N1 đã lấy trộm nên T4 nói cho V1 biết sự việc và nhờ bạn bè nếu gặp N1 ở đâu thì cho biết địa điểm. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, V1 thấy N1 đăng Z đang ở địa chỉ: Số A đường L, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ nên thông báo cho T4 biết chỗ ở của anh N1, T4 nhờ V1 mượn xe ô tô đến Cần Thơ gặp anh N1, T4 rủ Trần Mạnh C 1 và Nguyễn Văn K1 cùng đi, mục đích T4 rủ nhiều người đi cùng là để tạo áp lực cho anh N1 sợ để trả lại tài sản (chai nước hoa và đôi dép), V1 là người liên hệ mượn xe ô tô bán tải loại 07 chỗ ngồi, biển số 67C-099.xx của anh Võ Tấn K2, sau khi mượn được xe, thì T4 điều khiển xe ô tô chở V1 và K1 đến đón C1 ở phường M, thành phố L, trên đường đi thì C1 hỏi T4 vụ việc như thế nào, T4 nói đi cần Thơ gặp người lấy trộm chai nước hoa và đôi dép của T4, sẵn dịp đánh người đó cho bỏ ghét.

Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 26/12/2022, nhóm của T4 (gồm C1, K1, V1) đến nhà nghỉ A, địa chỉ: số A đường L, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ. Đến nơi thì T4, K1, C1, V1 vào nói chuyện với anh N1 trước cửa phòng số 2, T4 nói anh N1 lấy trộm chai nước hoa và đôi dép của T4 thì đưa ra, anh N1 không thừa nhận đã lấy trộm tài sản của T4, T4 thấy anh N1 đang cầm trên tay chiếc điện thoại di động, nên nói mày không lấy thì mày có tài sản gì thì đưa đây để làm tin hoặc đưa điện thoại di động đây, nhưng anh N1 không đồng ý đưa tài sản, nên nhóm của T4 tiến đến đánh anh N1, C1 dùng tay đánh vào mặt anh N1, T4 giật điện thoại của anh N1 đang cầm trên tay nhưng không được, K1 dùng cùi chỏ đánh vào mặt của anh N1. V1 đứng cạnh bên không can ngăn nhưng đồng tình với hành động của T4, C1, K1, đồng thời có lời nói tạo áp lực để anh N1 trả lại tài sản “mày không lấy đồ thì ai lấy, có lấy tài sản gì của T4 thì trả lại cho T4”, lúc này, do ồn ào nên chủ nhà nghỉ đem va li đồ của anh N1 để ra trước nhà nghỉ và đuổi tất cả ra khỏi nhà nghỉ, rồi C1 và V1 đi ra phía trước nhà nghỉ A, T4 nắm cổ áo phía trước của anh N1, KI đứng phía sau xô đẩy anh N1 ra trước cửa nhà nghỉ, lúc này T4 dùng tay trái giật được điện thoại di động hiệu Vivo trên tay của anh N1. Lấy được điện thoại của anh N1 xong, T4 đưa điện thoại cho K1 cất giữ, anh N1 kêu trả lại điện thoại để đi làm, thì T4, K1, V1 lần lượt nói với anh N1 là lấy điện thoại của anh N1, khi nào anh N1 mang tài sản lên L trả lại cho T4 thì sẽ trả lại điện thoại cho anh N1, lúc đó C1 đứng cạnh bên áp sát anh N1, dùng tay chỉ về phía anh N1 yêu cầu anh N1 trả tài sản cho T4. Sau khi khi lấy được tài sản xong, thì V1, K1 và T4 đi lại xe ô tô để ra về, riêng C1 tiếp tục ở lại cự cãi với anh N1 kêu anh N1 trả lại tài sản đã lấy của T4, thì anh N1 nói T4 đã lấy tài sản của anh N1, C1 tiếp tục dùng cùi chỏ đánh vào mặt anh N1, C1 nói với người trong nhóm là anh N1 kêu trả tài sản (điện thoại của anh N1), thì T4 đi đến giúp C1 rượt đuổi, nên anh N1 bỏ chạy. Khi lên xe ô tô thì K1 lấy chiếc điện thoại chiếm đoạt được của anh N1 để trên ghế xe, cả nhóm đều thấy. T4 điều khiển xe chở cả nhóm về cơ sở massage của V1, T4 là người cất giữ điện thoại. Đến sáng cùng ngày, anh N1 đến cơ sở massage Sauna Long X gặp T4 xin nhận lại chiếc điện thoại di động, nhưng T4 không đồng ý trả mà chỉ cho anh N1 nhận lại thẻ sim điện thoại, T4 yêu cầu anh N1 giao trả số tiền 3.000.000 đồng (tương đương giá trị chai nước hoa và đôi dép) thì sẽ trả lại điện thoại cho anh N1.

Đến khoảng 11 giờ, ngày 26/12/2022, anh Trần Trung N1 đến Công an phường H, quận N trình báo sự việc anh bị đánh và bị chiếm đoạt tài sản là điện thoại di động hiệu VIVO và bị mất số tiền 400.000 đồng trong vali, nhưng không xác định ai đã lấy.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 điện thoại di động hiệu VIVO màu xanh, Imei: 865362069277737; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A13, màu xanh, Imei: 350013880466106 thu giữ của bị cáo Phan Minh T4 (Do bị cáo Phan Minh T4 giao nộp) - 01 điện thoại di động S1 A50, Imei: 357088101293102 (Thu giữ của bị cáo Phan Hoàng V1).

Theo Kết luận định giá tài sản số 2575/KL-HĐĐG ngày 30/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận N xác định trị giá của chiếc điện thoại di động hiệu Vivo Y21, màu xanh, Imei: 865362069277737 là 2.750.000 đồng (Bút lục 36- 37).

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an quận N đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh Trần Trung N1 01 điện thoại di động hiệu Vivo Y21. Bị cáo Phan Hoàng V1 nhờ em ruột là anh Phan Kim L bồi thường cho bị hại số tiền 400.000 đồng (Bút lục 38, 79).

Đối với việc anh Trần Trung N1 bị nhóm của Phan Minh T4 đánh gây thương tích, anh N1 không đến bệnh viện hay cơ sở y tế để điều trị nên không có cơ sở để giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể, đồng thời anh N1 cũng không giám định thương tích, không yêu cầu khởi tố, bồi thường về thương tích nên không đề cập xử lý (Bút lục 83 - 87).

Về trách nhiệm dân sự: anh Trần Trung N1 đã nhận lại tài sản là chiếc điện thoại điện thoại di động hiệu Vivo Y21, màu xanh và số tiền 400.000 đồng, anh N1 không có yêu cầu gì thêm. Đồng thời anh N1 có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo (Bút lục 38, 81) Tại Cáo trạng số 04/CT-VKSQNK ngày 07 tháng 12 năm 2023, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều đã truy tố bị cáo Phan Minh T4, Trần Mạnh C1, Nguyễn Văn K1, Phan Hoàng V1 về tội Cướp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa trình bày: Giữ nguyên quan điểm Cáo trạng truy tố, đồng thời phân tích tính chất, mức độ tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân và vai trò của các bị cáo. Đề nghị HĐXX:

Áp dụng: Khoản 1 Điều 168, điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17 Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Các bị cáo Phan Minh T4, Trần Mạnh C1, Nguyễn Văn K1, Phan Hoàng Vũ phạm tội Cướp tài sản.

Xử phạt:

- Bị cáo Phan Minh T4 mức án 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù;

- Bị cáo Trần Mạnh C1 mức án 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù;

- Bị cáo Nguyễn Văn K1 mức án 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù;

- Bị cáo Phan Hoàng V1 mức án 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận N đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh Trần Trung N1 01 điện thoại di động hiệu Vivo Y21. Bị cáo Phan Hoàng V1 nhờ em một là anh Phan Kim L bồi thường cho bị hại số tiền 400.000 đồng, bị hại không yêu cầu gì thêm.

Tịch thu sung công: 01 điện thoại di động S1 A13, màu xanh, Imei: 350013880466106 thu giữ của bị cáo Phan Minh T4, 01 điện thoại di động S1 A50, Imei: 357088101293102 thu giữ của Phan Hoàng V1.

Người bào chữa cho bị cáo C1 - Luật sư H trình bày: Bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, vợ ly hôn, cha mẹ mất và nuôi con nhỏ. Bị cáo C1 ăn năn hối cải, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tài sản trả lại cho bị hại. Đề nghị mức án khởi điểm cho bị cáo C1.

Người bào chữa cho bị cáo V1 - Luật sư B2 trình bày: Về tội danh, thống nhất với truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo Phan Hoàng V1. Bị cáo có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải. Các bị cáo không có ý định cướp tài sản của bị hại, sau khi vụ việc xảy ra bị cáo đã khắc phục hậu quả. Hơn nữa, bị hại có đơn xin bãi nại cho bị cáo. Ngoài ra, bị cáo V1 được địa phương xác nhận có nhân thân tốt, có sự đóng góp tại địa phương. Do đó, đề nghị áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự cho bị cáo mức án 01 năm tù đối với bị cáo V1.

Đại diện Viện kiểm sát tranh luận: Không chấp nhận đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hinh sự đối với các bị cáo.

Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tại lời nói sau cùng, các bị cáo xin được hưởng mức án nhẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp lời khai tại phiên tòa, phù hợp với lời khai bị hại, phù hợp với nội dung bản kết luận định định giá tài sản số 2575/KL-HĐĐG ngày 30/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận N. Vào ngày 26/12/2023 các bị cáo Phan Minh T4, Trần Mạnh C1, Nguyễn Văn K1, Phan Hoàng V1 đã thực hiện hành vi dùng vũ lực nhằm mục đích chiếm đoạt chiếc điện thoại di động hiệu Vivo Y21 của anh Trần Trung N1, tài sản có giá trị 2.750.000 đồng (Hai triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

Do đó, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật đã nêu trong cáo trạng là có cơ sở.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo không những xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất an ninh trật tự trị an trên địa bàn, gây tâm lý hoang mang, bất bình trong xã hội nên cần áp dụng hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.

Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án, xét thấy bị cáo T4 cho rằng bị mất tài sản là do N1 lấy nên rủ bị cáo V1, K1, C1 cùng bàn bạc để lấy tài sản, tuy nhiên các hành vi dùng vũ lực sau đó mang tính bộc phát do đó vai trò của V1 là cao hơn các bị cáo khác, các bị cáo còn lại có vai trò giúp sức.

[4] Xem xét đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, vai trò của các bị cáo, tính chất mức độ hành vi phạm tội và quyết định hình phạt:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo gia đình các bị cáo khó khăn, bị cáo V1 có đóng góp tại địa phương, bị cáo C1 có con nhỏ vợ đã ly hôn nên xem đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Qua xem xét hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, nên cần áp dụng hình phạt nghiêm buộc các bị cáo cách ly xã hội một thời gian như mức đề xuất của kiểm sát viên mới có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận N đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh Trần Trung N1 01 điện thoại di động hiệu Vivo Y21. Bị cáo Phan Hoàng V1 nhờ em ruột là anh Phan Kim L bồi thường cho bị hại số tiền 400.000 đồng, bị hại không yêu cầu gì thêm.

Tịch thu sung công: 01 điện thoại di động S1 AI3, màu xanh, thu giữ của bị cáo Phan Minh T4, 01 điện thoại di động S1 A50, thu giữ của Phan Hoàng V1.

[6] Đối với việc anh Trần Trung N1 bị nhóm của T4 đánh gây thương tích, anh N1 không đến bệnh viện hay cơ sở y tế để điều trị nên không có cơ sở để giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể, đồng thời anh N1 cũng không giám định thương tích, không yêu cầu khởi tố, bồi thường về thương tích nên không đề cập xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Xét thấy lời đề nghị của Luật sư B2 cho rằng bị cáo khắc phục hậu quả 400.000 đồng và yêu cầu được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy, quá trình điều tra truy tố xác định các bị cáo cướp tài sản là điện thoại di động của bị hại, không truy tố việc bị hại mất 400.000 đồng. Do đó, việc gia đình bị cáo Vũ khắc thỏa thuận đưa 400.000 đồng cho bị hại không phải là tình tiết khắc phục hậu quả nên không được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, luật sư yêu cầu áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo là không có cơ sở.

[9] Xét thấy lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với chứng cứ trong hồ sơ và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.1. Căn cứ: Khoản 1 Điều 168, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015:

- Tuyên bố: Bị cáo Phan Minh T4 phạm tội “Cướp tài sản”;

- Xử phạt: Bị cáo Phan Minh T4 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo T4 tính từ ngày 26/12/2022.

1.2. Căn cứ: Khoản 1 Điều 168, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015:

- Tuyên bố: Bị cáo Trần Mạnh C1 phạm tội “Cướp tài sản”;

- Xử phạt: Bị cáo Trần Mạnh C1 03 (Ba) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo C1 tính từ ngày 21/7/2023.

1.3. Căn cứ: Khoản 1 Điều 168, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015:

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn K1 phạm tội “Cướp tài sản”;

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn K1 03 (Ba) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo K1 tính từ ngày 28/8/2023.

1.4. Căn cứ: Khoản 1 Điều 168, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015:

- Tuyên bố: Bị cáo Phan Hoàng V1 phạm tội “Cướp tài sản”;

- Xử phạt: Bị cáo Phan Hoàng V1 03 (Ba) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo V1 tính từ ngày 21/7/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung công: 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A13, màu xanh, thu giữ của bị cáo Phan Minh T4, 01 điện thoại di động S1 A50, thu giữ của Phan Hoàng V1. (Các vật chứng theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 08/12/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ninh Kiều)

3. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên Tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày (Mười lăm ngày) kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự được quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

50
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 08/2024/HS-ST

Số hiệu:08/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về