TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 03/2023/HS-ST NGÀY 10/02/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 10 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 81/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2023 đối với bị cáo:
Thái Nhƣ T (tên gọi khác: Bi), sinh năm: 1996, tại Bạc Liêu.
Nơi thường trú: Số 22, khóm K, Phường 8, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu; nơi tạm trú: Số 582 đường L, Phường 15, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; con ông Thái Như B và bà Lý Thị Ngọc T1; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 07/01/2019 Ủy ban nhân dân phường 8, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với Thái Như T về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, trong thời hạn 03 tháng và đã chấp hành xong; ngày 08/3/2021 Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu ra Quyết định số 09/QĐ-TA về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện đối với Thái Như T, thời gian 16 tháng, bị cáo chưa chấp hành xong, vì lý do vắng mặt tại địa phương.
Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/4/2022 cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Kiên Giang (Có mặt).
- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Thái Đức G – Công ty TNHH Luật R, Đoàn Luật sư tỉnh Kiên Giang (Có mặt).
- Bị hại: Ông Trần Văn H, sinh năm 1980 (có đơn xin vắng mặt)
Địa chỉ: Số 132 đường T 13, phường T, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Thái Như B, sinh năm 1978 (cha bị cáo) (có mặt)
2. Bà Lý Thị Ngọc T, sinh năm 1974 (mẹ bị cáo) (có mặt)
Cùng địa chỉ: Khóm K, phường 8, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Thái Như T đi làm thuê (tài xế) và sống tạm trú tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đến khoảng 23 giờ 30 phút ngày 21/4/2022, T đặt xe taxi do anh Trần Văn H làm tài xế và là chủ sở hữu xe, chạy xe hiệu Toyota Vios E, biển số 51F-X chở về thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang với giá 3.000.000đ. Khi đi T mang theo 01 khẩu súng ngắn Rulo (ổ quay) đã lắp 06 viên đạn và mang theo thêm 06 viên đạn. Đến khoảng 03 giờ 30 phút ngày 22/4/2022, xe chạy đến đoạn đường cao tốc Vàm Cống - Rạch Sỏi, thuộc địa phận ấp Đông Thái, thị trấn Tân Hiệp, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang thì T nảy sinh ý định cướp xe taxi nên kêu anh H dừng ven đường để đi vệ sinh, cả 02 cùng xuống xe thì bất ngờ T cầm súng uy hiếp anh H cướp xe, anh H chặn các xe đang lưu thông để kêu cứu. Thấy vậy, T cầm súng bắn một phát súng chỉ thiên đe dọa, anh H hoảng sợ chạy qua bên kia đường ngược chiều, T cầm súng bắn một phát súng chỉ thiên thứ hai rồi cướp xe điều khiển chạy về hướng Rạch Giá tẩu thoát. Khi T chạy xe đến đường Xuyên Á thuộc địa phận khu phố 2, thị trấn thứ 11, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang thì dừng xe cặp lề đường rồi đến nhà người cậu của T, tên Huỳnh Hoàng Ẩn cách đó 300m để lẫn trốn. Đến khoảng 07 giờ ngày 22/4/2022, khi nghe T kể lại sự việc trên, gia đình đưa T ra Công an huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang đầu thú và giao nộp 01 khẩu súng Rulo, 10 viên đạn.
Tài sản của anh Trần Văn H bị cướp gồm 01 xe ô tô Toyota Vios E, đời 2015, màu bạc, biển kiểm soát: 51F-X; tiền Việt Nam 8.511.000đ; 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Samsung A30S màu xanh; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 567456; 01 gấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự số AD21-0064861;
01 phiếu kiểm định số 5008D-2915/21; 01 bóp da màu đen bên trong gồm có: 01 tờ Đôla mỹ mệnh giá 02 USD, 01 thẻ ngân hàng Đông á Bank, 01 thẻ ngân hàng VIB, 01 thẻ ngân hàng BIDV, 01 giấy phép lái xe tên Trần Văn H. (Tài sản trên đã trả cho chủ sở hữu).
* Tại Bản kết luận giám định số 2470/KL-KTHS ngày 28/4/2022 của Phân Viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận như sau:
- Khẩu súng ổ quay ghi ký hiệu Wingun, số 21TH018228 gửi giám định là súng chế tạo thủ công từ súng đồ chơi nguy hiểm hiệu Win Gun, số hiệu 21TH018230, để bắn đạn với cỡ (5,6x15,6)mm. Hiện tại bộ phận của súng có đủ, lắp ráp đúng vị trí và bắn được đạn nổ. Khẩu súng nêu trên là vũ khí quân dụng. Không đủ cơ sở xác định khẩu súng ổ quay gửi giám định đã sử dụng để bắn chưa.
- 10 viên đạn bằng kim loại dài 2,5cm, thân đạn màu vàng, đầu đạn màu đen, đít viên đạn có ký hiệu S B gửi giám định là đạn thể thao cỡ (5,6x15,6)mm và không phải đạn quân dụng.
* Tại Bản kết luận định giá số 12/2022/KL-HĐĐG ngày 29/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang kết luận:
- 01 xe ô tô Toyota Vios E đời 2015, đã qua sử dụng, còn sử dụng được có giá dao động tương ứng trên thị trường là 240.000.000 đ.
- 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Samsung A30S màu xanh: Số máy SN-A307GN/DN; số seri FR8M918HAGM; IMEI (1) 3358544102315285; IMEI (2) 358545102315282 đã qua sử dụng có giá dao động trên địa bàn thị trấn Tân Hiệp là 1.700.000đ.
- 01 tờ Đôla Mỹ mệnh giá 02 USD: có giá dao động 40.000đ. Tổng giá trị tài sản cần định giá: 241.740.000đ.
* Việc thu giữ, xử lý vật chứng - 01 khẩu súng màu đen, trên súng có lô gô WG; trên thân súng có các dòng chữ: WARNING: BEFORE USING READ SAFETY MANUAL, MADE IN TAIWAN, 21THO18228 (đã được Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Kiên Giang thu hồi theo Quyết định thu hồi vũ khí ngoài thực lực số 1764/QĐ-BCH ngày 21/6/2022).
- 10 viên đạn bằng kim loại dài 2,5cm, thân đạn màu vàng, đầu đạn màu đen, đáy viên đạn có ký hiệu S B.
- 01 đôi dép quai kẹp, màu đen, có chữ “ASIA SPORTS” màu trắng.
* Về trách nhiệm dân sự Bị hại Trần Văn H yêu cầu Thái Như T trả tiền thuê xe 3.000.000đ, bị can đã trả xong. Ngoài ra, anh H không yêu cầu bồi thường gì khác.
Tại bản Cáo trạng số: 72/CT – VKS – P2 ngày 19/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Thái Như T về tội “Cướp tài sản”; “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo điểm a khoản 3 Điều 168 và khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Cướp tài sản” Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng theo điểm a khoản 3 Điều 168 và khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự và nhận định: Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của công dân, gây tâm lý lo sợ, hoang mang cho người bị hại. Hành vi của bị cáo còn xâm phạm đến chế độ quản lý vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự của Nhà nước và gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.
Tuy nhiên, cũng cần xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khắc phục hậu quả, sau khi phạm tội ra đầu thú, trả lại số tiền 3.000.000 đồng thuê xe cho bị hại.
Từ đó, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về hình phạt: Áp dụng: Điểm a khoản 3 Điều 168, khoản 1 Điều 304, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 55 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Thái Như T mức án từ 11 năm đến 12 năm tù về tội “Cướp tài sản” và từ 04 năm đến 05 năm tù về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung của hai tội là 15 năm đến 17 năm tù.
- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt; ngoài ra bị hại yêu cầu bị cáo trả số tiền thuê xe là 3.000.000 đồng, bị cáo đã trả xong.
- Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
* uật sư phát bi u quan đi m bào chữa cho bị cáo như sau: Thống nhất với Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh “Cướp tài sản” và “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; khắc phục hậu quả; đầu thú; hoàn cảnh gia đình khó khăn. Từ đó, đề nghị xử phạt bị cáo mức án thấp hơn đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết hành vi của mình là sai trái và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Kiên Giang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét hành vi bị truy tố của bị cáo:
Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 21/4/2022, Thái Như T đặt xe taxi do anh Trần Văn H làm tài xế và là chủ sở hữu xe, chạy xe hiệu Toyota Vios E, biển số 51F-X chở về thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang với giá 3.000.000đ. Khi đi T mang theo 01 khẩu súng ngắn Rulo (ổ quay) đã lắp 06 viên đạn và mang theo thêm 06 viên đạn. Đến khoảng 03 giờ 30 phút ngày 22/4/2022, xe chạy đến đoạn đường cao tốc Vàm Cống - Rạch Sỏi, thuộc địa phận ấp Đông Thái, thị trấn Tân Hiệp, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang thì T nảy sinh ý định cướp xe taxi, dùng súng uy hiếp và bắn hai phát chỉ thiên đe dọa anh H, rồi cướp xe và một số tài sản trên xe chạy về hướng Rạch Giá tẩu thoát. Qua định giá các tài sản bị cáo cướp được có giá trị là 250.251.000 đồng. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp tài sản” và “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 168 và khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội.
[3] Xét tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo.
Bị cáo biết và nhận thức được tài sản hợp pháp của con người là bất khả xâm phạm, là vốn quý luôn được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm trái phép đều bị xử lý nghiêm. Tuy nhiên, vì mục đích hám lợi mà bị cáo bất chấp pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo lợi dụng lúc đêm khuya, trên đường cao tốc vắng người qua lại, dùng súng để uy hiếp tinh thần người bị hại và khi người bị hại có hành vi phản kháng (kêu la) cầu cứu thì ngày lập tức bị cáo nổ súng (bắn chỉ thiên), làm cho người bị hại hoảng sợ, rơi vào thế không thể kháng cự lại mà phải bỏ chạy và để cho bị cáo chiếm đoạt chiếc xe ô tô rồi tẩu thoát. Hành vi phạm tội của bị cáo rất táo bạo, liều lĩnh, cùng lúc thực hiện nhiều hành vi phạm tội và thực hiện tội phạm mang tính chất rất nghiêm trọng.
Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản của người bị hại một cách trái pháp luật, gây tâm lý lo sợ, hoảng loạn cho người bị hại; xâm phạm trực tiếp đến chế độ quản lý vũ khí quân dụng, kỹ thuật quân sự của Nhà nước; xâm phạm đến trật tự an toàn nơi công cộng, gây mất an ninh trật tự trị an tại địa phương. Xét về nhân thân, bị cáo có nhân thân xấu, từng có tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý và đang có một tiền sự chưa chấp hành, nay bị cáo lại thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng. Do đó, HĐXX thiết nghĩ cần phải tuyên cho bị cáo mức án nghiêm mới tương xứng với tính chất, hậu qủa mà bị cáo đã gây ra mới có đủ thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo cũng như có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.
[4] Xét về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã ra đầu thú; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đã tác động gia đình trả số tiền thuê xe 3.000.000 đồng cho bị hại. Nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo.
[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát:
Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo và mức án xử phạt bị cáo như trên là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Tuy nhiên, Viện kiểm sát đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự làm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là chưa phù hợp, bởi số tiền 3.000.000 đồng trả cho bị hại là tiền bị cáo thuê xe đi Rạch Giá, không phải khắc phục hậu quả; đối với các tài sản bị cáo cướp của bị hại, thì sau khi bị cáo đi đầu thú, cơ quan công an đã thu giữ các tài sản và trả lại cho người bị hại. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng tình tiết giảm nhẹ này cho bị cáo là phù hợp.
[6] Xét đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo:
Luật sư đề nghị các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Tuy nhiên, Luật sư đề nghị mức án xử phạt bị cáo thấp hơn đề nghị của Viện kiểm sát là không phù hợp nên không chấp nhận.
[7] Về trách nhiệm dân sự:
Trong quá trình điều tra, bị hại H đã nhận lại toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt, chỉ yêu cầu bị cáo trả lại 3.000.000 đồng tiền thuê xe, ngoài ra không có yêu cầu gì thêm. Trong quá trình điều tra, bị cáo đã tác động gia đình trả lại số tiền này cho người bị hại.
Đối với số tiền 3.000.000 đồng mà cha mẹ bị cáo bỏ ra để trả cho bị hại, tại toà cha mẹ bị cáo không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về xử lý vật chứng:
Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm:
Đối với 01 khẩu súng màu đen, trên súng có lô gô WG; trên thân súng có các dòng chữ: WARNING: BEFORE USING READ SAFETY MANUAL, MADE IN TAIWAN, 21THO18228 là vũ khí quân dụng, (đã được Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Kiên Giang thu hồi theo Quyết định thu hồi vũ khí ngoài thực lực số 1764/QĐ-BCH ngày 21/6/2022).
Đối với vật chứng gồm: 10 viên đạn bằng kim loại dài 2,5cm, thân đạn màu vàng, đầu đạn màu đen, đáy viên đạn có ký hiệu S B (không phải là vũ khí quân dụng) và 01 đôi dép quai kẹp, màu đen, có chữ “ASIA SPORTS” màu trắng. Đây là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu huỷ.
[9] Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
* Tuyên bố: Bị cáo Thái Nhƣ T phạm tội “Cướp tài sản” và “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo điểm a khoản 3 Điều 168 và khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Áp dụng: Điểm a khoản 3 Điều 168, khoản 1 Điều 304, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 55 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
- Xử phạt: Bị cáo Thái Nhƣ T - 12 (Mười hai) năm tù về tội “Cướp tài sản và 04 (bốn) năm tù về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 16 (Mười sáu) năm tù, thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/4/2022.
* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
Tịch thu tiêu hủy các vật chứng gồm: 10 viên đạn bằng kim loại dài 2,5cm, thân đạn màu vàng, đầu đạn màu đen, đáy viên đạn có ký hiệu SB và 01 đôi dép quai kẹp, màu đen, có chữ “ASIA SPORTS” màu trắng.
Theo Quyết định chuyển giao vật chứng số 50/QĐ-VKSKG-P2 ngày 07 tháng 11 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang.
* Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:
Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
* Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng bị hại vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội cướp tài sản số 03/2023/HS-ST
Số hiệu: | 03/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về