Bản án về tội cướp giật tài sản và trộm cắp tài sản số 107/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 107/2022/HS-ST NGÀY 14/07/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN VÀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 14 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 89/2022/HSST ngày 27 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 6 năm 2022, Quyết định hoãn phiên toà số 19/2022/HSST – QĐ ngày 23/6/2022, Thông báo thay đổi thời gian mở phiên toà số 11/TB – TA ngày 28/6/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Mạnh P, sinh năm 1992. Tên gọi khác: Không. Tại :Bắc Giang.Giới tính: Nam. Nơi cư trú: Số nhà 11, ngõ 02, đường Nguyễn Huy B, tổ dân phố Thành Ngang, phường Xương Giang, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Không. Văn hóa: 9/12. Con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1964 (đã chết) và bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1970. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 47 ngày 04/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang xử phạt Nguyễn Mạnh P 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong án phạt tù ngày 19/12/2020.

Tiền sự: Ngày 28/02/2020 bị Công an phường Dĩnh Kế, thành phố Bắc Giang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/01/2022. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang.

( Có mặt tại phiên tòa)

* Bị hại:

- Cháu Nguyễn Minh C, sinh năm 2012 Địa chỉ: Số nhà 14, đường T, phường Thọ Xương, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang Đại diện hợp pháp cho cháu C: chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1980. Địa chỉ: Số nhà 14, đường T, phường Thọ Xương, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang (Có đơn xin vắng mặt)

- Cháu Giáp H A, sinh ngày 01/02/2020.

Địa chỉ: Số nhà 136, đường T, tổ 7, phường Thọ Xương, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang

Đại diện hợp pháp cho cháu H A: chị Thân Thị Hà, sinh năm 1989. Địa chỉ: Số nhà 136, đường T, tổ 7, phường Thọ Xương, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang (Có đơn xin vắng mặt) Đại diện đoàn thanh niên UBND phường Thọ Xương: Bà Nguyễn Thị A – Bí thư đoàn phường Thọ Xương (Có đơn xin vắng mặt)

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1980 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số nhà 14, đường T, phường Thọ Xương, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang

- Bà Hoàng Thị T, sinh năm 1959 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số nhà 149, đường T, phường Thọ Xương, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang

- Anh Nguyễn N N, sinh năm 1987 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số nhà 29, đường G, phường Xương Giang, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang

- Anh Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1994 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số nhà 08, ngõ 57, đường Đông Thành, phường Xương Giang, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang

* Người chứng kiến: Ông Giáp Văn T, sinh năm 1959 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số nhà 149, đường T, phường Thọ Xương, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 04/01/2022, Nguyễn Mạnh P, sinh năm 1992 trú tại Tổ dân phố Thành Ngang, phường Xương Giang, thành phố Bắc Giang điều khiển xe mô tô BKS 98D1-124.15 đi trên một số tuyến đường tại thành phố Bắc Giang mục đích để trộm cắp tài sản. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, P đi đến trước cửa nhà chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1980 ở số nhà 14, đường T 5, phường Thọ Xương, thành phố Bắc Giang thì nhìn thấy cháu Nguyễn Minh C, sinh năm 2012 là con gái chị H đang ngồi ở ghế tại tầng 01 cầm Chiếc máy tính bảng Ipad. Chiếc Ipad có đặc điểm (thế hệ 7) có số máy MW792ZA/A, số seri DMPD29UTMF3V, dung lượng 128 GB là tài sản của chị H đưa cho cháu C sử dụng để học trực tuyến. P điều khiển xe đi lại quanh khu vực trước cửa nhà chị H mục đích chờ sơ hở sẽ vào trộm cắp. Khi thấy cháu C để Chiếc máy tính bảng ở ghế và đi lên tầng 2 còn tại tầng 1 thì không có ai, P dựng xe ở lề đường rồi đi vào trong nhà trộm cắp Chiếc máy tính bảng Ipad. Sau đó, P đi xe đến cửa hàng mua bán điện thoại của anh Nguyễn N N, sinh năm 1987 ở số nhà 29, đường Giáp Hải, phường Xương Giang, thành phố Bắc Giang. P nói với anh Nam Chiếc Ipad là tài sản của P không sử dụng nữa nên muốn bán. Anh Nam đồng ý mua và trả cho P 1.000.000 đồng. P khai đã C tiêu hết 500.000 đồng, còn lại 01 tờ 500.000 đồng để trong ví da.

Sau khi phát hiện bị trộm cắp Chiếc máy tính bảng Ipad, chị H làm đơn trình báo. Cơ quan điều tra đã thu giữ 02 đoạn video được trích xuất từ camera của gia đình chị H có ghi lại hình ảnh diễn biến sự việc.

Ngày 05/01/2022, Công an thành phố Bắc Giang triệu tập Nguyễn Mạnh P thì P đầu thú và khai nhận đã trộm cắp Chiếc máy tính bảng Ipad của gia đình chị H. Cơ quan điều tra đã tạm giữ của P 01 Chiếc ví da bên trong có căn cước công dân của P và 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng; 01 Chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu đen và Chiếc xe mô tô BKS 98D1-124.15. Khám xét khẩn cấp nơi ở của P nhưng không phát hiện, thu giữ đồ vật, tài liệu liên quan đến hành vi phạm tội.

Căn cứ lời khai nhận của P, Cơ quan điều tra đã thu giữ vật chứng của vụ án là Chiếc máy tính bảng Ipad số seri DMPD29UTMF3V có khóa mật khẩu màn hình do anh Nguyễn N N giao nộp.

Bản kết luận định giá tài sản số 02 ngày 07/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Bắc Giang kết luận: Chiếc máy tính bảng Ipad (thế hệ 7) số máy MW792ZA/A, số seri DMPD29UTMF3V dung lượng 128 GB, mua mới tháng 9/2020, đã qua sử dụng, có giá trị tại thời điểm ngày 04/01/2022 là 8.000.000 đồng.

Ngày 06/01/2022, Cơ quan điều tra cho chị Nguyễn Thị H quan sát Chiếc Ipad đã thu giữ và cung cấp mật khẩu để mở khóa. Kết quả chị H xác định đúng là tài sản của chị H đồng thời cung cấp mật khẩu 222222 và mở được khóa màn hình.

Ngày 13/01/2022, Cơ quan điều tra cho Nguyễn Mạnh P xem 02 đoạn video đã thu giữ. Kết quả P xác định trong 02 đoạn video có hình ảnh P đi vào trong nhà trộm cắp Chiếc máy tính bảng Ipad để trên ghế sau khi cháu Nguyễn Minh C đi lên tầng 2.

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Cơ quan điều tra đã trả lại chị Nguyễn Thị H Chiếc máy tính bảng Ipad và trả lại anh Nguyễn N N số tiền 500.000 đồng. Chị H không yêu cầu bồi thường. Anh Nam yêu cầu bị cáo P bồi thường 500.000 đồng.

Ngoài hành vi trộm cắp tài sản nêu trên, quá trình điều tra xác định Nguyễn Mạnh P còn thực hiện hành vi cướp giật tài sản, cụ thể như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 30/12/2021, Nguyễn Mạnh P điều khiển xe mô tô BKS 98D1-124.15 đi trên một số tuyến đường tại thành phố Bắc Giang mục đích để trộm cắp tài sản. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, P đi trên đường T, phường Thọ Xương, thành phố Bắc Giang. Khi đi đến số nhà 149 đường T thì P nhìn thấy cháu Giáp H A, sinh ngày 01/02/2020 ngồi trên ghế tại tầng 1 đang cầm Chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung A31 màu xanh. Chiếc điện thoại này là bà Hoàng Thị Tùng, sinh năm 1959 là bà nội cháu Giáp H A cho cháu Anh mượn để xem hoạt hình. Thời điểm này, bà Tùng cùng cH là ông Giáp Văn T đang nấu cơm và đi lại trong bếp ở tầng 1. P dừng xe ở ngoài đường chờ cơ hội thuận lợi sẽ Cếm đoạt Chiếc điện thoại của cháu Giáp H A đang cầm. Khi thấy bà Tùng đi lên tầng 2, P đi vào nhà dùng tay phải giật Chiếc điện thoại trên tay cháu Anh rồi bỏ chạy ra ngoài đường. Cháu Anh khóc và gọi bà Tùng. Thấy vậy, bà Tùng đi từ tầng 2 xuống thì nhìn thấy P ngồi lên xe máy phóng xe bỏ chạy. Sau đó, bà Tùng làm đơn trình báo.

Sau khi cướp giật được Chiếc điện thoại, P đi đến cửa hàng điện thoại của anh Nguyễn N N ở số nhà 29 đường Giáp Hải, phường Xương Giang, thành phố Bắc Giang bán được 1.000.000 đồng. P nói với anh Nam là điện thoại của P không sử dụng nữa nên bán. P khai đã C tiêu hết số tiền trên. Anh Nam khai đã bán lại Chiếc điện thoại này cho người không quen biết nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Kết luận định giá tài sản số 03 ngày 12/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Bắc Giang kết luận: Chiếc điện thoại Samsung Galaxy A31 màu xanh mua mới tháng 01/2021, đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm ngày 30/12/2021 là 2.500.000 đồng.

Ngày 08/01/2022, Cơ quan điều tra đã trích xuất dữ liệu camera của công ty TNHH Trương Tú lắp đặt tại số nhà 86, đường T, phường Thọ Xương, thành phố Bắc Giang sau đó cho Nguyễn Mạnh P xem đoạn video đã thu giữ. Kết quả P xác định có hình ảnh P dựng xe ở lề đường rồi đi lại quan sát vào bên trong số nhà 149 đường T; hình ảnh P đi bộ vào trong nhà sau đó chạy từ trong nhà ra rồi lên xe máy bỏ chạy.

Ngày 27/01/2022, Cơ quan điều tra cho bị cáo P thực nghiệm điều tra tại hiện trường. Kết quả bị cáo P thực hiện các động tác dựng xe máy, xuống xe đi vào trong nhà, tiến đến vị trí cháu Giáp H A đang ngồi xem điện thoại; dùng tay phải giật Chiếc điện thoại rồi chạy ra lấy xe bỏ chạy phù hợp lời khai bị cáo và kết quả điều tra.

Về trách nhiệm dân sự: Bà Hoàng Thị Tùng yêu cầu P bồi thường 2.500.000 đồng, đồng thời đại diện hợp cháu của cháu H A cũng yêu cầu bị cáo bồi thường cho bà Hoàng Thị Tùng. Bị cáo chưa bồi thường cho bà Tùng.

Về nguồn gốc Chiếc xe mô tô BKS 98D1-124.15: Bị cáo P khai mượn của Nguyễn Xuân Cến, sinh năm 1994 trú tại số nhà 08, ngõ 57, đường Đông Thành, phường Xương Giang, thành phố Bắc Giang sử dụng để đi lại. Anh Cến khai mượn Chiếc xe trên của Nguyễn Mạnh Khởi, sinh năm 1995 ở thôn Đình, xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Kết quả tra cứu xác định đăng ký chủ xe là La Văn Anh, sinh năm 1989 trú tại thôn Sơn Quả, xã Lương Phong, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Kết quả xác minh Nguyễn Mạnh Khởi, La Văn Anh đều không có mặt tại địa P nên chưa lấy được lời khai. Cơ quan điều tra đã quyết định tách vật chứng để tiếp tục xác minh, giải quyết.

Đối với anh Nguyễn N N có hành vi mua Chiếc điện thoại và Chiếc máy tính bảng Ipad nhưng không biết là tài sản do Nguyễn Mạnh P phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Đối với 01 ví Chiếc ví da màu nâu, đã cũ, bên trong có 01 căn cước công dân số 024092004154 mang tên Nguyễn Mạnh P; 01 điện thoại Nokia 105, màu đen, số IMEI1: 350438134094562, số IMEI2: 350438139094567 được nhập kho vật chứng để xử lý theo quy định.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Nguyễn Mạnh P đã khai nhận hành vi phạm tội.

Cáo trạng số 95/CT-VKS ngày 26 tháng 5 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh P về các tội “Cướp giật tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự và “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Bản cáo trạng số 95/CT-VKS ngày 26 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang truy bố bị cáo về các tội “Cướp giật tài sản” và “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội, không oan sai. Bị cáo thừa nhận cướp giật một Chiếc điện thoại Samsung A31 của cháu Giáp H A và trộm cắp một Chiếc máy tính bảng Ipad của cháu Nguyễn Minh C. Lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại Cơ quan điều tra là anh Nguyễn N N yêu cầu bị cáo bồi thường 500.000 đồng và bà Hoàng Thị Tùng yêu cầu bị cáo bồi thường 2.500.000 đồng, đồng thời là đại diện hợp pháp cho cháu H A cũng yêu cầu bị cáo bồi thường cho bà Tùng. Nay bị cáo đồng ý bồi thường cho anh Nam và bà Tùng.

Hội đồng xét xử công bố lời khai của những người được Toà án triệu tập nhưng vắng mặt tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến gì.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh P từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h, i khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh P từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tổng hợp hình phạt: Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội từ 05 năm 03 tháng đến 06 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 05/01/2022.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 BLHS; Điều 584, Điều 585 BLDS: Buộc bị cáo P phải trả lại cho anh Nguyễn N N số tiền 500.000. Bồi thường cho bà Hoàng Thị Tùng 2.500.000 đồng.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại bị cáo 01 Chiếc ví da màu nâu, đã cũ, bên trong có 01 căn cước công dân số 024092004154 mang tên Nguyễn Mạnh P; trả lại bị cáo 01 điện thoại Nokia 105, màu đen, số IMEI1: 350438134094562, số IMEI2: 350438139094567 không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, cảm thấy rất hối hận về hành vi của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Bắc Giang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự có mặt của người tham gia tố tụng: Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của những người này nên căn cứ vào Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, xét xử vắng mặt họ.

[3] Về tội danh: Căn cứ vào Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú được lập vào hồi 7 giờ 00 phút ngày 05/01/2022, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:

Ngày 30/12/2021, Nguyễn Mạnh P cướp giật một Chiếc điện thoại Samsung A31 trị giá 2.500.000 đồng của cháu Giáp H A, sinh năm 2020 đang cầm xem tại tầng 1 số nhà 149 đường T, phường Thọ Xương, thành phố Bắc Giang. Chiếc điện thoại trên là của bà Hoàng Thị Tùng cho cháu Anh mượn để xem hoạt hình.

Ngày 04/01/2022, Nguyễn Mạnh P trộm cắp một Chiếc máy tính bảng Ipad trị giá 8.000.000 đồng của cháu Nguyễn Minh C, sinh năm 2012 để tại tầng 1 số nhà 14, đường T 5, phường Thọ Xương, thành phố Bắc Giang. Chiếc máy tính bảng này là của chị Nguyễn Thị H đưa cho cháu C mượn để học trực tuyến.

Bị cáo là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗ cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự và “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang truy tố bị cáo theo tội danh và Điều khoản trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về tính chất hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn làm ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội tại địa P, gây mất trật tự trị an tại địa P, gây tâm lý hoang mang cho quần chúng nhân dân. Do vậy cần phải có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra có như vậy mới có tác dụng giáo dục riêng, phòng ngừa chung.

[5] Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý.

[6] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội bị cáo ra đầu thú. Bị cáo có thời gian tham gia quân ngũ. Do vậy cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[7] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 04/5/2020, Toà án nhân dân thành phố Bắc Giang xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong án phạt tù ngày 19/12/2020, đến nay chưa được xoá án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo trộm cắp tài sản của cháu Nguyễn Minh C, sinh năm 2012 là người dưới 16 tuổi nên bị cáo phải chịu tình tiết “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Với tính chất hành vi phạm tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo nêu trên. Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp phạm tội nghiêm trọng cần xử bị cáo cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, khi lượng hình, Hội đồng xét xử có xem xét thái độ ăn năn, hối cải của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình. Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về hình phạt áp dụng cho bị cáo với mỗi tội là phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, lẽ ra cần áp dụng khoản 5 Điều 171 và khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo để sung ngân sách Nhà nước. Nhưng xét thấy bị cáo không có công ăn việc làm nên miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo thành người lương thiện và thể hiện sự khoan H của pháp luật.

[9] Về trách nhiệm dân sự:

[9.1] Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Thị Tùng yêu cầu bị cáo bồi thường trị giá 01 điện thoại Samsung với số tiền 2.500.000 đồng thì thấy: Theo bị cáo khai nhận và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện bị cáo cướp giật một Chiếc điện thoại Samsung A31 của cháu Giáp H A, sinh năm 2020. Chiếc điện thoại là của bà Hoàng Thị Tùng cho cháu Anh mượn xem hoạt hình. Đại diện hợp pháp cho cháu Giáp H A là chị Thân Thị Hà yêu cầu bị cáo bồi thường cho bà Hoàng Thị Tùng. Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Mạnh P đồng ý bồi thường toàn bộ cho bà Hoàng Thị Tùng số tiền 2.500.00 đồng nên cần buộc bị cáo Nguyễn Mạnh P phải bồi thường bà Hoàng Thị Tùng số tiền trên.

[9.2] Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn N N yêu cầu bị cáo P phải trả số tiền 500.000 đồng thì thấy: Ngày 04/01/2022 bị cáo 01 Chiếc máy tính bảng Ipad của cháu Nguyễn Minh C và đem bán cho anh Nguyễn N N được 1.000.000 đồng. Cơ quan điều tra đã trả lại anh Nam 500.00 đồng nên cần buộc bị cáo còn phải trả cho anh Nam 500.000 đồng.

[10] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 Chiếc ví da màu nâu, đã cũ, bên trong có 01 căn cước công dân số 024092004154 mang tên Nguyễn Mạnh P cần trả lại bị cáo phù hợp quy định tại khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 01 điện thoại Nokia 105, màu đen, số IMEI1: 350438134094562, số IMEI2: 350438139094567 không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án phù hợp quy định tại khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[11] Về những vấn đề khác trong vụ án:

[11.1] Đối với Chiếc xe mô tô BKS 98D1-124.15: Bị cáo P khai mượn của Nguyễn Xuân Cến, sinh năm 1994 trú tại số nhà 08, ngõ 57, đường Đông Thành, phường Xương Giang, thành phố Bắc Giang sử dụng để đi lại. Anh Cến khai mượn Chiếc xe trên của Nguyễn Mạnh Khởi, sinh năm 1995 ở thôn Đình, xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Kết quả tra cứu xác định đăng ký chủ xe là La Văn Anh, sinh năm 1989 trú tại thôn Sơn Quả, xã Lương Phong, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Kết quả xác minh Nguyễn Mạnh Khởi, La Văn Anh đều không có mặt tại địa P nên chưa lấy được lời khai. Cơ quan điều tra đã quyết định tách vật chứng để tiếp tục xác minh, giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[11.2] Đối với anh Nguyễn N N có hành vi mua Chiếc điện thoại và Chiếc máy tính bảng Ipad nhưng không biết là tài sản do Nguyễn Mạnh P phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 21, điểm a, c khoản 1 điều 23; Điều 26 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBNTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Ngoài ra, cần tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án và áp dụng các Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên quyền kháng cáo.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm g khoản 2 điều 171; khoản 1 điều 173; Điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm h, i khoản 1 điều 52; điều 38; Điều 55; Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung. Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều khoản 1 Điều 584, Điều 585, khoản 1 Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015.

Căn cứ các Điều 135, Điều 136; Điều 292; Điều 331, Điều 333, Điều 336, Điều 337 của Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 21, điểm a, c khoản 1 điều 23; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBNTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Xử:

1.1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh P 04 (Bốn) năm 02 (Hai) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” và 01 (Một) năm 04 (Bốn) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản ”. Tổng hợp hình phạt cả hai tội bị cáo phải chấp hành là 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 05/01/2022 1.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Nguyễn Mạnh P bồi thường cho bà Hoàng Thị Tùng số tiền 2.500.000 đồng.

Buộc bị cáo Nguyễn Mạnh P trả cho anh Nguyễn N N số tiền 500.000 đồng.

3. Về vật chứng: Trả lại bị cáo 01 Chiếc ví da màu nâu, đã cũ, bên trong có 01 căn cước công dân số 024092004154 mang tên Nguyễn Mạnh P; trả lại bị cáo 01 điện thoại Nokia 105, màu đen, số IMEI1: 350438134094562, số IMEI2: 350438139094567 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án 4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Mạnh P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

6. Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

7. Hướng dẫn thi hành án dân sự: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản và trộm cắp tài sản số 107/2022/HS-ST

Số hiệu:107/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về