Bản án về tội cướp giật tài sản số 97/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH - TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 97/2022/HS-ST NGÀY 22/12/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 12 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 89/2022/TLST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2022/QĐXXST- HS ngày 08 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Duy K, sinh năm 1998 tại Bến Tre.

Nơi cư trú: Ấp Q, xã Q, huyện C, tỉnh Bến Tre.

Giới tính: Nam.

Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh.

Tôn giáo: Không.

Nghề nghiệp: Công nhân.

Trình độ học vấn: 09/12.

Con Lê Văn A và bà Nguyễn Thị B.

Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án: Không. Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/8/2022 sau đó chuyển tạm giam đến nay.

Bị cáo có mặt tại tòa.

Bị hại:

- Lê Thị Hồng V, sinh năm 1997.

Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

Lê Thị Hồng V vắng mặt tại tòa.

- Lê Đặng Bích N, sinh năm 2000.

Nơi cư trú: Ấp P, xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre.

Lê Đặng Bích N vắng mặt tại tòa.

Ngưi làm chứng:

- Nguyễn Phương Q, sinh năm 1996.

Nơi cư trú: Ấp L, xã G, huyện C, tỉnh Bến Tre.

Nguyễn Phương Q vắng mặt tại tòa.

- Bùi Thanh T, sinh năm 1992.

Nơi cư trú: Ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre.

Bùi Thanh T vắng mặt tại tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do muốn có điện thoại sử dụng nên vào khoảng 05 giờ 30 phút ngày 27/7/2022, Lê Duy K điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 71C3-318.87 lưu thông trên tuyến Quốc lộ 57B hướng từ Khu công nghiệp G đi vòng xoay G để cướp giật điện thoại của người đi đường. Khi K dừng xe chờ tín hiệu đèn giao thông trước cổng D6-Khu công nghiệp G thì nhìn thấy Nguyễn Phương Q điều khiển xe mô tô chở Lê Thị Hồng V. Khang thấy trong túi quần phía sau bên phải của V có điện thoại liền nảy sinh ý định chiếm đoạt nên điều khiển xe chạy theo xe Q. Đến khu vực trước trạm xăng dầu L thì xe của Q có tín hiệu sang đường. Do Q điều khiển xe chuyển làn đường gần dãy phân cách nên chạy chậm lại chuẩn bị sang đường. Lúc này K điều khiển xe áp sát bên phải xe của Q rồi dùng tay trái giật lấy điện thoại của V sau đó tăng ga tẩu thoát về hướng vòng xoay G. Sau khi chiếm đoạt điện thoại của V, K đem về giấu tại phòng trọ của mình.

Với mục đích nêu trên, vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 19/8/2022, K tiếp tục điều khiển xe mô tô biển số: 71C3-318.87 đi từ nhà trọ của mình hướng về cầu A. Khi gần đến lò bánh mì H thì nhìn thấy Bùi Thanh T điều khiển xe mô tô chở Lê Đặng Bích N. K thấy trong túi quần phía sau bên phải của N có điện thoại liền nảy sinh ý định chiếm đoạt nên điều khiển xe chạy theo xe T. Khi xe của T chạy qua khỏi vòng xoay G khoảng 100m thì T dừng xe bên lề phải mua trái cây. Lúc này K điều khiển xe đến gần vị trí xe của T rồi dùng tay phải giật lấy điện thoại của N sau đó tẩu thoát về hướng cầu A. Sau khi chiếm đoạt điện thoại của N, K giấu điện thoại trong cốp xe và chạy về phòng trọ của mình.

Sau khi bị cướp giật điện thoại, N đến Công an xã G, huyện C trình báo. Công an xã G, huyện C phối hợp với Công an xã Q, huyện C và Công an huyện C, tỉnh Bến Tre tiến hành kiểm tra phòng trọ bắt giữ K cùng tang vật cướp giật được.

Vật chứng tạm giữ: Điện thoại di động hiệu Iphone11 Pro Max, số IMEI 1: 353887106015723, số IMEI 2: 353887104233641 kèm theo ốp lưng bằng nhựa màu trắng, viền màu vàng có hình phi hành gia; Điện thoại di động hiệu Iphone12 Pro Max-128G màu trắng, số IMEI 1: 359015636935756, số IMEI 2:

359015636933033 kèm theo ốp lưng điện thoại Iphone12 Pro Max bằng nhựa trong suốt, viền màu vàng; Tờ tiền đô la Mỹ mệnh giá 02USD; Xe mô tô biển kiểm soát: 71C3-318.87 nhãn hiệu HONDA Winner màu vàng - đen, số khung: RLHKC2601GY328882, số máy: KC26E1174973 kèm theo giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển kiểm soát: 71C3-318.87 do Lê Duy K đứng tên chủ đăng ký; Mũ bảo hiểm màu xanh, phía sau có chữ “NÓN SƠN”; Áo khoác dài tay màu đen; Quần dài màu đen; Quần Jeans lửng màu đen; Đôi dép nhựa màu đen, quai dép có chữ “GD”.

Bản kết luận định giá tài sản số: 1553/KL-HĐĐG ngày 03/10/2022 và Bản kết luận định giá tài sản số: 1592/KL-HĐĐG ngày 07/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện C, tỉnh Bến Tre kết luận: Điện thoại di động hiệu Iphone12 Pro Max-128G, màu trắng, số IMEI 1: 359015636935756, số IMEI 2:

359015636933033 trị giá 23.310.000 đồng; Ốp lưng điện thoại Iphone12 Pro Max bằng nhựa trong suốt, viền màu vàng trị giá 150.000 đồng; Tờ tiền đô la Mỹ mệnh giá 02USD trị giá 46.400 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt trong vụ cướp giật tài sản ngày 27/7/2022 là 23.506.400 đồng; Điện thoại di động hiệu Iphone11 Pro Max, số IMEI 1: 353887106015723, số IMEI 2:

353887104233641 trị giá 12.919.500 đồng; Ốp lưng bằng nhựa màu trắng, viền màu vàng có hình phi hành gia trị giá 35.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt trong vụ cướp giật tài sản ngày 19/8/2022 là 12.954.500 đồng.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh Bến Tre trả lại cho Lê Thị Hồng V điện thoại di động hiệu Iphone12 Pro Max kèm theo ốp lưng bằng nhựa và tờ tiền đô la Mỹ mệnh giá 02USD; Trả lại cho Lê Đặng Bích N điện thoại di động hiệu Iphone11 Pro Max kèm theo ốp lưng bằng nhựa.

Cáo trạng số: 97/CT-VKSCT ngày 28/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre truy tố bị cáo Lê Duy K phạm “Tội cướp giật tài sản” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo:

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: Đề nghị xử phạt bị cáo K từ 04 năm đến 05 năm tù.

- Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; các điều 584, 585 và Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015: Đề nghị ghi nhận bị hại V và bị hại N đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Đề nghị tịch thu nộp ngân sách Nhà nước xe mô tô biển kiểm soát: 71C3- 318.87 nhãn hiệu HONDA Winner màu vàng - đen, số khung: RLHKC2601GY328882, số máy: KC26E1174973 kèm theo giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển kiểm soát: 71C3-318.87 do Lê Duy K đứng tên chủ đăng ký do đây là tài sản bị cáo Khang sử dụng vào việc phạm tội.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy mũ bảo hiểm màu xanh, phía sau có chữ “NÓN SƠN”; Áo khoác dài tay màu đen; Quần dài màu đen; Quần Jeans lửng màu đen và đôi dép nhựa màu đen, quai dép có chữ “GD” do bị cáo Khang không yêu cầu nhận lại và không còn giá trị sử dụng.

Tại tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố, đồng thời tại lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Quá trình điều tra và tại tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về các quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị hại và người làm chứng vắng mặt tại tòa nhưng đã có lời khai cụ thể, r ràng tại cơ quan điều tra và việc vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị hại và người làm chứng là phù hợp quy định tại Điều 292 và Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[2] Lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra và tại tòa phù hợp với lời khai của bị hại về đặc điểm tài sản, vị trí, thời gian mà bị cáo chiếm đoạt tài sản và phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Do muốn có điện thoại để sử dụng nên vào khoảng 05 giờ 30 phút ngày 27/7/2022 và 17 giờ 30 phút ngày 19/8/2022, bị cáo K sử dụng xe mô tô biển kiểm soát: 71C3-318.87 làm phương tiện để cướp giật điện thoại di động hiệu Iphone12 Pro Max của Lê Thị Hồng V và điện thoại di động hiệu Iphone11 Pro Max của Lê Đặng Bích N. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt của bị hại là 36.460.900 đồng.

[3] Hành vi của bị cáo là hành vi công khai chiếm đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu phợp pháp của người khác một cách nhanh chóng rồi bất ngờ tẩu thoát để tránh sự phản ứng của bị hại. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Bị cáo đã có hành vi điều khiển xe mô tô để thực hiện việc cướp giật tài sản của người đang điều khiển xe mô tô nên hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã phạm “Tội cướp giật tài sản” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng và quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Bị cáo biết việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, bị xã hội lên án nhưng vì động cơ tư lợi bất chính, bị cáo đã thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội tại địa phương nơi bị cáo thực hiện tội phạm, tạo sự bất bình, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, làm mọi người không an tâm trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi.

[5] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội nhiều lần quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng nên cần thiết áp dụng hình phạt tù để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân lương thiện, có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung theo quy định tại Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[8] Trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

[9] Xử lý vật chứng:

- Ghi nhận cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh Bến Tre đã trả điện thoại di động hiệu Iphone11 Pro Max, số IMEI 1: 353887106015723, số IMEI 2: 353887104233641 kèm theo ốp lưng bằng nhựa màu trắng, viền màu vàng có hình phi hành gia cho Lê Đặng Bích N; Trả điện thoại di động hiệu Iphone12 Pro Max-128G màu trắng, số IMEI 1: 359015636935756, số IMEI 2: 359015636933033 kèm theo ốp lưng điện thoại Iphone12 Pro Max bằng nhựa trong suốt, viền màu vàng và tờ tiền đô la Mỹ mệnh giá 02USD cho Lê Thị Hồng V.

- Đối với xe mô tô biển kiểm soát: 71C3-318.87 nhãn hiệu HONDA Winner màu vàng - đen, số khung: RLHKC2601GY328882, số máy: KC26E1174973 kèm theo giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển kiểm soát: 71C3-318.87 do Lê Duy K đứng tên chủ đăng ký là tài sản của cá nhân bị cáo K sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với mũ bảo hiểm màu xanh, phía sau có chữ “NÓN SƠN”; Áo khoác dài tay màu đen; Quần dài màu đen; Quần Jeans lửng màu đen và đôi dép nhựa màu đen, quai dép có chữ “GD” là tài sản của bị cáo K nhưng bị cáo không yêu cầu nhận lại và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[10] Án phí: Bị cáo bị kết án nên có nghĩa vụ chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Duy K phạm “Tội cướp giật tài sản”.

[1] Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Lê Duy K 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 19/8/2022.

[2] Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; các điều 584, 585 và Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015:

Ghi nhận bị hại Lê Thị Hồng V và Lê Đặng Bích N đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

[3] Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tích thu nộp ngân sách Nhà nước: Xe mô tô biển kiểm soát: 71C3- 318.87 nhãn hiệu HONDA Winner màu vàng - đen, số khung: RLHKC2601GY328882, số máy: KC26E1174973 kèm theo giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển kiểm soát: 71C3-318.87 do Lê Duy K đứng tên chủ đăng ký.

- Tịch thu tiêu hủy: Mũ bảo hiểm màu xanh, phía sau có chữ “NÓN SƠN”; Áo khoác dài tay màu đen; Quần dài màu đen; Quần Jeans lửng màu đen và đôi dép nhựa màu đen, quai dép có chữ “GD”.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện C, tỉnh Bến Tre với Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Bến Tre).

[4] Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Lê Duy K có nghĩa vụ chịu án phí với số tiền 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

[5] Áp dụng Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 97/2022/HS-ST

Số hiệu:97/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về