Bản án về tội cướp giật tài sản số 94/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 94/2022/HS-ST NGÀY 23/11/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong ngày 23 tháng 11 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 87/2022/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Đào Văn C; sinh năm: 1993 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Không; nơi ở: Không có nơi ở nhất định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: /(Vô danh) và bà: Nguyễn Thị L; tiền án: Không; tiền sự: 01 (ngày 30/9/2019 bị Tòa án nhân dân Quận 3 quyết định xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 21 tháng tại Quyết định số 110/QĐ-TA); nhân thân: Ngày 20/01/2016 bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 26/2016/HSST (đã xóa án tích); bị bắt giữ ngày: 31/8/2022.

(Bị cáo có mặt).

Bị hại:

Ông Nguyễn Trung H – Sinh năm: 1993 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp B, xã Phước B, huyện T, tỉnh Tây Ninh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/Bà Nguyễn Kim D – Sinh năm: 1986 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Thới L, xã Thới T, huyện Bình Đ, tỉnh Bến Tre.

2/Ông Phạm Văn U – Sinh năm: 1974 (vắng mặt).

Địa chỉ: Đường C, Phường H, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 15 phút ngày 31/8/2022, Nguyễn Đào Văn C điều khiển xe môtô hiệu Honda Airblade biển số 67N1-X đi đến trước nhà số 449/2 đường Sư Vạn Hạnh, Phường 12, Quận 10 thì nhìn thấy ông Nguyễn Trung H đang đứng trước nhà và trên tay cầm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 Pro Max, nên nảy sinh ý định chiếm đoạt; C điều khiển xe vòng lại áp sát ông H, dùng tay trái giật chiếc điện thoại của ông H bỏ vào lưng quần của mình rồi tăng ga xe bỏ chạy; Tổ tuần tra Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 10 phát hiện liền truy đuổi liên tục, bắt giữ được C cùng vật chứng; giải giao cho Công an Phường 12, Quận 10 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, sau đó Công an Phường 12, Quận 10 chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Tài sản bị chiếm đoạt: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 Pro Max, tại Kết luận định giá tài sản số 3354/KL-HĐĐGTS ngày 19/9/2022 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 10 kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 Pro Max có trị giá là 27.190.000 đồng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết định khởi tố điều tra đối với Nguyễn Đào văn C về hành vi “Cướp giật tài sản”.

Quá trình điều tra, Nguyễn Đào Văn C khai nhận toàn bộ hành vi như trên.

Vật chứng vụ án:

Đối với: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 Pro Max, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã trả cho ông Nguyễn Trung H.

Đối với: 01 xe môtô hiệu Honda Airblade biển số 67N1-X; qua xác minh xe do bà Nguyễn Kim D đứng tên giấy đăng ký xe, năm 2012 bà Dung bán xe cho ông Phạm Văn U nhưng không làm thủ tục sang tên, sau đó ông U đưa xe cho Nguyễn Đào Văn C mượn làm phương tiện đi lại và ngày 31/8/2022 C dùng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội như trên, ông Út không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã trả xe cho ông Út quản lý.

Đối với: 01 áo thun màu đen, 01 áo khoác màu trắng và 01 quần jean dài màu xanh là các quần áo mà C mặc lúc thực hiện hành vi phạm tội; Công an Quận 10 đã tạm giữ lại.

Riêng đối với 01 đĩa DVD chứa dữ liệu camera ghi nhận hình ảnh lúc C bỏ chạy và bị bắt (đã lưu vào hồ sơ vụ án) Tại Cáo trạng số 86/CT-VKSQ10 ngày 31 tháng 10 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

Nguyễn Đào Văn C về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, bị hại sau khi nêu lên những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại) của bị cáo; đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s, h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo, xử phạt bị cáo: Nguyễn Đào Văn C từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù, miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến của bị cáo: Không có ý kiến tranh luận gì.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Tại Cơ quan điều tra, cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình, qua lời khai nhận của bị cáo, đối chiếu với lời khai của bị hại, nội dung ghi hình của camera, vật chứng, bản kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là phù hợp, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Nguyễn Đào Văn C thực hiện hành vi dùng thủ đoạn nguy hiểm là sử dụng xe môtô có phân khối lớn, lợi dụng sự sơ hở của người khác mà nhanh chóng công khai chiếm đoạt tài sản trị giá 27.190.000 đồng của bị hại. Do vậy bị cáo bị truy tố và xét xử về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo do đã được xóa án tích.

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Về trách nhiệm dân sự:

Tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi và giao trả cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì; do vậy, không có gì để Tòa giải quyết.

Về xử lý vật chứng:

Đối với: 01 áo thun màu đen, 01 áo khoác màu trắng và 01 quần Jean dài màu xanh; là quần áo mà C mặc khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, không đáng giá trị; vậy căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu và tiêu hủy.

Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đào Văn C phạm tội “Cướp giật tài sản”.

- Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Nguyễn Đào Văn C;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đào Văn C 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/8/2022.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo C.

- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu và tiêu hủy: 01 áo thun màu đen, 01 áo khoác màu trắng và 01 quần Jean dài màu xanh.

(Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 28/10/2022 giữa Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh và Chi cục Thi hành dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh).

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc: Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo tính từ ngày tuyên án; đối với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa tính từ ngày được giao hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 94/2022/HS-ST

Số hiệu:94/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về