Bản án về tội cướp giật tài sản số 90/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 90/2022/HS-ST NGÀY 11/05/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong ngày 11 tháng 5 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 31/2022/TLST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Trƣơng Hoàng L. Sinh năm 1973. Hộ khẩu thường trú: Ấp Tường Trí B, xã TL, huyện TB, tỉnh Vĩnh Long. Chổ ở: XX ấp 3, xã VL, huyện BC, Tp Hồ Chí Minh. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Học vấn: 6/12. Nghề nghiệp: không. Cha: Trương Hoàng O (chết) và mẹ Phạm Thị Cẩm H, sinh năm 1953. Anh chị em: 03 người kể cả bị cáo. Bị cáo chưa có vợ con Tiền án, tiền sự: không có Bị cáo bị tạm giam từ ngày 23/9/2021 chuyển tạm giam cho đến nay.

Người bị hại: Chị Đồng Thị Thanh T , sinh năm 1987. Địa chỉ: YY ấp Mỹ Hòa 1, xã TC, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 6 năm 2018, Trương Hoàng L là quen với chị Đồng Thị Thanh T qua mạng Zalo. Do thấy T có đeo nhiều nữ trang vàng nên L nảy sinh ý định chiếm đoạt số vàng để bán lấy tiền trả nợ. Sáng ngày 29/6/2018 L mua sẳn bộ trang sức giả gồm: lắc, dây chuyền, nhẫn, bông tai khoảng 300.000 đồng. Sau khi mua vàng giả xong bỏ trong hộp nhựa tròn màu đỏ thì L đi đến nhà T. Khoảng 15 giờ, L điều khiển xe máy biển số 59T1-807.87 chở T đi chơi trên đường đi L rủ T đến khách sạn tâm sự và nói có mua cho T một số nữ trang thì T đồng ý. Cả hai đến khách sạn QA tại số ZZ Đường D11, KP3, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú thuê phòng số 103. Tại đây L lấy hộp trang sức ra và nói rằng số nữa trang T đang đeo trên người không hợp thời trang nên L tự dùng tay tháo gỡ hết số nữ trang gồm 01 bộ ximen 21 vòng (03 bộ mỗi bộ 07 vòng), 01 đôi bông tai, 01 dây chuyền vàng rồi bỏ vào trong hộp nhựa và L lấy số vàng giả mà mình vừa mua đeo cho T. Khoảng 16 giờ 10, L nói chở T ra siêu thi mua ít đồ, khi đi L lấy hộp đựng vàng của T và điện thoại di động hiệu Samsung của T bỏ vào trong túi áo khoác của L rồi chở T đi. Khi đến siêu thị, L kêu T vào trong mua đồ nhưng T không đồng ý. L tiếp tục chở T đến chùa gần đó và kêu T vào trong đốt nhang, T không đồng ý và kêu L đưa lại hộp nũ trang cho T nhưng L không đưa.T yêu cầu L chở về nhà. Khi về đến nhà T số AA Song Hành ấp Mỹ Hòa 1, xã Trung Chánh, huyện Hóc Môn thì T xuống xe vào gọi cửa, ngay lúc này L nhanh chóng điều khiển xe bỏ chạy để chiếm đoạt số vàng, điện thoại của T, T đuổi theo nắm áo khoác L kéo lại nhưng không được.

Sau đó T trình báo sự việc với Công an xã Trung Chánh. Sau khi chiếm đoạt được số vàng, điện thoại của T thì L đem vàng đến tiệm vàng Phát Lợi số XX Gò Xoài, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân bán được 25.000.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung bán cho một thanh niên không rõ lai lịch được 1.000.000 đồng. L tiêu xài hết. Ngày 23/9/2021 L bị bắt theo Quyết định truy nã của Cơ quan Sảnh sát Điều tra Công an huyện Hóc Môn. Tại Cơ quan Điều tra L khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Kết luận định giá tài sản số 215/KL-HĐĐGTS ngày 18/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hóc Môn kết luận: 03 bộ vòng ximen vàng 18K 11 chỉ 03 phân 09 ly 02zem trị giá 29.004.032 đồng, 01 đôi bông tai bằng vàng 18K 09 phân 02 zem trị giá 2.296.492 đồng, 01 sơi dây chuyền vàng 18k 02 chỉ 55 zem trị giá 5.232.030 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung A 7 trị giá 2.000.000 đồng. Tổng trị giá 38.532.554 đ.

Vật chứng thu giữ: 01 Xe máy biển số 59T1-8087.87, số khung: RLHJF4610EZ176404, số máy JF46E6-102632. Cơ quan điều tra đang tạm giữ Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã được gia đình L bồi thường 43.000.000 đồng, không yêu cầu gì thêm.

Tại bản cáo trạng số 47/CT-VKS - HS ngày 11 tháng 02 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trương Hoàng L về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Hóc Môn, thực hành quyền công tố giữ nguyên cáo trạng đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo: Trương Hoàng L phạm tội “Cướp giật tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tác động gia đình bồi thường cho bị hại nên áp dụng điểm b, s Khoản 1 Điều 51; Điều 38; Khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trương Hoàng L từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (năm) năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

- 01 Xe máy biển số 59T1-8087.87, số khung: RLHJF4610EZ176404, số máy JF46E6-102632. Cơ quan điều tra đang tạm giữ Về trách nhiệm dân sự:

Chị T đã được gia đình L bồi thường 43.000.000 đồng, không cầu gì thêm.

Bị cáo không tranh luận; trình bày lời nói sau cùng là bị cáo hối hận và hành vi của bị cáo, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án nhẹ để sớm trở về hòa nhập xã hội thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an Huyện Hóc Môn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Trương Hoàng L thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời trình bày của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án: Trương Hoàng L làm quen với chị Đồng Thị Thanh T qua mạng Zalo vào tháng 6 năm 2018. Do thấy T có đeo nhiều nữ trang vàng nên L nảy sinh ý định chiếm đoạt số vàng để bán lấy tiền trả nợ. Sáng ngày 29/6/2018 Linh mua sẳn bộ trang sức giả gồm: lắc, dây chuyền, nhẫn, bông tai khoảng 300.000 đồng. Sau khi mua vàng giả xong L đi đến nhà T. Khoảng 15 giờ, Linh điều khiển xe máy biển số 59T1-807.87 chở T đi chơi trên đường đi L rủ T đến khách sạn tâm sự và nói có mua cho T một số nữ trang thì T đồng ý. Cả hai đến khách sạn QA tại số xx Đường D11, KP3, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú thuê phòng số 103. Tại đây L lấy hộp trang sức ra và nói số nữa trang T đang đeo trên người không hợp thời trang nên L tự dùng tay tháo gỡ hết số nữ trang gồm 01 bộ ximen 21 vòng (03 bộ mỗi bộ 07 vòng), 01 đôi bông tai, 01 dây chuyền vàng rồi bỏ vào trong hộp nhựa và L lấy số vàng giả mà mình vừa mua đeo cho T. Sau khi gỡ hết nữ trang của T và L lấy luôn điện thoại di động hiệu Samsung của T bỏ vào trong túi áo khoác của Linh rồi chở T đi siêu thị, đi chùa. T kêu L đưa lại hộp nữ trang cho T nhưng L không đưa. T yêu cầu L chở về nhà. Khi về đến nhà T số XX Song Hành ấp Mỹ Hòa 1, xã Trung Chánh, huyện Hóc Môn thì T xuống xe vào gọi cửa, ngay lúc này L nhanh chóng điều khiển xe bỏ chạy để chiếm đoạt số vàng, điện thoại của Tuyền, T đuổi theo nắm áo khoác L kéo lại nhưng không được. Sau đó, T trình báo sự việc với Công an xã Trung Chánh. Sau khi chiếm đoạt được số vàng, điện thoại của T thì L đem vàng đến tiệm vàng Phát Lợi số YY Gò Xoài, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân bán được 25.000.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung bán cho một thanh niên không rõ lai lịch được 1.000.000 đồng. L tiêu xài hết. Kết luận định giá tài sản số 215/KL-HĐĐGTS ngày 18/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hóc Môn kết luận: 03 bộ vòng ximen vàng 18K 11 chỉ 03 phân 09 ly 02zem trị giá 29.004.032 đồng, 01 đôi bông tai bằng vàng 18K 09 phân 02 zem trị giá 2.296.492 đồng, 01 sơi dây chuyền vàng 18k 02 chỉ 55 zem trị giá 5.232.030 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung A7 trị giá 2.000.000 đồng.

Tổng trị giá 38.532.554 đồng. Hành vi của bị cáo L từ việc đổi vàng giả để lừa chị T lấy vàng thật, đến việc chở chị T về nhà lợi dụng chị T sơ hở Linh chạy xe tẩu thoát nhằm mục chiếm đoạt tài sản của chị Tuyền. Chi T nắm được áo khoác của bị cáo L kéo lại nhưng không được. Hành vi này của bị cáo được chuyển hóa tội danh sang “Cướp giật tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định Khoản 1, Điều 171 Bộ luật Hình sự.

[3] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo lười lao động, hành vi cướp giật tài sản nhằm mục đích tiêu xài cá nhân làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, nên cần xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Hóc Môn, đề nghị áp dụng hình phạt tù giam để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội, biết chấp hành pháp luật là có căn cứ.

[5] Khi quyết định hình phạt có xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho bị cáo như sau:

5.1 Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Linh tác động gia đình đã bồi thường cho người bị hại xong, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điểm b, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

5.2 Tình tiết tăng nặng: không có

[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự [7] Về trách nhiệm dân sự:

Chị Đồng Thị Thanh T vắng mặt đã bồi thường số tiền 43.000.000 đồng xong, không yêu cầu bồi thường thêm nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 Xe máy biển số 59T1-8087.87, số khung:

RLHJF4610EZ176404, số máy JF46E6-102632 đứng tên chủ sở hữu của chị Võ Thị Ngọc T, chị Thảo ủy quyền cho Trần Quốc H, Trần Quốc H ủy quyền lại cho Trương Hoàng L có công chứng chứng thực, có giấy mua bán xe chứng minh bị cáo mua xe lại, do đó xác định bị cáo là chủ sở hữu hợp pháp của xe máy biển số 59T1- 8087.87. Tuy nhiên, đây là xe dùng vào việc phạm tội, là phương tiện phạm tội cần tịch thu sung quỹ nhà nước (kèm theo 01 Giấy chứng nhận xe gắn máy tên Võ Thị Ngọc T biển số 59T1-807.87) [9] Đối với số vàng bị cáo L đem bán cho tiệm vàng Phát Lợi, tiệm vàng đã nấu tan chảy không thu hồi được.

[10] Cơ quan Điều tra đã trả lại cho bị cáo 01 Giấy chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe tên Trương Hoàng L xong.

[11] Về hình phạt bổ sung: Không phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo không có tài sản.

[12] Về án phí: Bị cáo L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trương Hoàng L phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Căn cứ Khoản 1 Điều 171; Điểm b, s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trương Hoàng L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/9/2021.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Ghi nhận chị Đồng Thị Thanh T vắng mặt đã nhận bồi thường số tiền 43.000.000 đồng, không yêu cầu bồi thường thêm.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 Xe máy biển số 59T1-807.87, số khung: RLHJF4610EZ176404, số máy JF46E6-102632 đứng tên chủ sở hữu của chị Võ Thị Ngọc T, bị cáo là chủ sở hữu hợp pháp của xe máy biển số 59T1-807.87 là phương tiện phạm tội (kèm theo 01 Giấy chứng nhận xe gắn máy tên Võ Thị Ngọc T biển số 59T1-807.87).

4. Cơ quan Điều tra đã trả lại cho bị cáo 01 Giấy chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe tên Trương Hoàng L xong.

5. Về hình phạt bổ sung: Không phạt bổ sung đối với bị cáo.

6. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Bị cáo Trương Hoàng L phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

514
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 90/2022/HS-ST

Số hiệu:90/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về