Bản án về tội cướp giật tài sản số 75/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 75/2023/HS-ST NGÀY 26/06/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 6 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 61/2023/TLST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2025 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 6 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. VÕ CÔNG H1; sinh ngày 31 tháng 5 năm 2007; tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; Nơi ĐKTT: 8 T, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: 360/33/9A Ấp D, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Học sinh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12, đang học tại trường THPT S2; Con ông Võ Công S, sinh năm 1977 và bà Trương Thị Hồng N, sinh năm 1988; Anh chị em ruột: 03 người, bị cáo là người thứ 01; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị cáo bị băt tạm giữ tư ngày 10/8/2022 đến ngày 19/8/2022 thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

Đại diện hợp pháp của bị cáo Phạm Văn Trung H là bà Trương Thị Hồng N có mặt tại phiên tòa.

2. PHẠM VĂN TRUNG H; sinh ngày 21 tháng 12 năm 2007 tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; ĐKTT: B T, Phường I, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: B T, Phường I, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Học sinh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12, đang học tại trường Cao đẳng L; Con ông Phạm Thành T, sinh năm: 1975; con bà Lương Ngọc T1, sinh năm 1978; Anh chị em ruột: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị băt tạm giữ tư ngày 10/8/2022 đến ngày 19/8/2022 thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

Đại diện hợp pháp của bị cáo Phạm Văn Trung H là bà Lương Ngọc T1 có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho các bị cáo: Luật sư Lâm Quốc V, Luật sư thuộc Văn phòng L1 có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Dương Phương T2, sinh năm: 1981; Địa chỉ: G Rạch B, Phường A, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Công H1 và Phạm Văn Trung H là bạn bè đang học lớp 9 tại trường Trung học cơ sở L2, Phường I, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Trưa ngày 09/8/2022, Công H1 gọi điện thoại rủ Trung H đi chơi, đồng thời điều khiển xe mô tô hiệu Honda Lead màu đỏ biển số 59P1-XXXXX từ nhà tại huyện N đến nhà T và đưa xe cho Trung H điều khiển chở Công H1 đi ăn uống và đi chơi. Đến khoảng 14 giờ 00 phút cùng ngày, trên đường về, khi đến trước nhà số B Â, Phường I, quận T, C nhìn thấy ông Dương Phương T2 đứng trên lề đường bên hông nhà số B Â, mặt hướng ra đường, trên tay cấm và sử dụng 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A71 màu xanh đen kèm theo ốp lưng bằng da, Công Hiếu này sinh ý định cướp giật điện thoại di động nên dùng tay phải chạm vào bên hông sườn phải của Trung H và dùng tay phải chỉ về phía ông T2 rồi nói “có điện thoại kìa, thử giật không?", Trung H nhìn theo hướng chỉ tay và gật đầu đồng ý. Trung Hiếu điều khiển xe chạy áp sát vào bên phải lề đường, hướng từ ngoài vào trong lề, Công Hiếu ngồi phía sau chồm người qua bên phải, dùng tay phải giật được chiếc điện thoại di động, Trung Hiếu tăng ga bỏ chạy ra hướng đường Â. Ông T2 truy hô, đồng thời lấy xe mô tô đang dừng đỗ gần ngồi lên, cùng lúc ông Đỗ Quang D đứng gần hỗ trợ ngồi lên sau xe của ông T2 đuổi theo đến trước số B Â, Phường I, quận T ép xe của Trung H vào lề đường bắt giữ Trung Hiếu cùng phương tiện, Công Hiếu cất giấu chiếc điện thoại vừa giật được vào túi quần trước bên phải rồi chạy bộ vào hẻm B Â, khi đến trước số B Â, thì bị người dân bắt giữ cùng chiếc điện thoại, bàn giao Công Hiếu và Trung H cùng tang vật cho Công an P, quận T xử lý.

Quá trình điều tra, Võ Công H1 và Phạm Văn T3 H1 khai nhận cùng nhau thực hiện hành vi cướp giật điện thoại di động của ông Dương Phương T2 như nêu trên, phù hợp lời khai bị hại, nhân chứng, dữ liệu camera, kết quả thực nghiệm điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong quá trình điều tra vụ án.

Vật chứng:

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A71 màu xanh đen, kèm ốp lưng màu đen, hàng chính hãng đã qua sử dụng, tình trạng trạng hoạt động tốt, kết quả định giá tài sản có giá trị là 2.500.000 đồng, thu hồi trả lại cho bị hại.

+ 01 xe mô tô hiệu Honda Lead màu đỏ biển số 59P1-XXXXX, phương tiện gây án, đăng ký sở hữu ông Võ Văn T4 là chú của bị cáo Võ Công H1. Ngày 09/8/2022, ông T4 đi làm để xe ở nhà, Công H1 tự ý lấy xe đi chơi sau đó thực hiện hành vi cướp giật tài sản, ông T4 không biết. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận T trả xe cho ông T4.

+ Ngoài ra thu giữ tài sản cá nhân của Võ Công H1: 01 điện thoại di động hiệu hiệu Iphone X là tài sản cá nhân không liên quan vụ án, bộ trang phục bị cáo mặc khi phạm tội;

+ Thu giữ tài sản cá nhân của Phạm Văn Trung H: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 là tài sản cá nhân không liên quan vụ án, bộ trang phục bị cáo mặc khi phạm tội.

Phần dân sự: Ông Dương Phương T2 đã nhận chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A71 màu xanh đen, kèm ốp lưng màu đen và không yêu cầu các bị cáo bồi thường.

Tại bản cáo trạng số 63/CT-VKS ngày 11 tháng 5 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Võ Công H1 Phạm Văn Trung H về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội cướp giật tài sản, xử phạt bị cáo Võ Công H1 và bị cáo Phạm Văn Trung H từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 03 năm đến 04 năm.

Về vật chứng và trách nhiệm dân sự thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật. Luật sư Lâm Quốc V trình bày: Thống nhất vời quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình về tội danh, khung hình phạt truy tố. do các bị cáo phạm tội do bộc phát nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng mức hình phạt nhẹ hơn mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị.

- Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố các bị cáo Võ Công H1 Phạm Văn Trung H, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận T, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Võ Công H1 Phạm Văn Trung H đã có hành vi điều khiển xe gắn máy cướp giật chiếc điện thoại di động của ông T2, đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản”, thuộc trường hợp “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”, là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất táo bạo, liều lĩnh ngang nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác ngay trên đường phố nơi đông người và dùng thủ đoạn nguy hiểm là xe gắn máy phân khối lớn, là nguồn nguy hiểm cao độ làm phương tiện phạm tội, tiềm ẩn nguy cơ dễ gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của bị hại và những người đang lưu thông trên đường. Xét về tính chất vụ án là nghiêm trọng, các bị cáo chưa thành niên, nhưng vẫn đủ khả năng nhận thức hành vi cướp giật tài sản của người khác bị pháp luật nghiêm cấm và trừng trị nhưng chỉ vì muốn có tiền tiêu xài nên các bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm, chứng tỏ các bị cáo có thái độ coi thường pháp luật. Do các bị cáo là người chưa thành niên phạm tội, khi phạm tội các bị cáo là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi nên áp dụng khoản 2, Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017 cho các bị cáo.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Do các bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, bản thân còn đi học và có 2 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải bắt các bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho các bị cáo hưởng án treo cũng đủ giáo dục, cải tạo các bị cáo thành công dân tốt, có ích cho xã hội, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[5]Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại ông Dương Phương T2 đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng vụ án:

+ Tài sản của ông T2 bị các bị cáo cướp giật là 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A71 màu xanh đen, kèm ốp lưng màu đen, tình trạng trạng hoạt động tốt, qua định giá tài sản có giá trị là 2.500.000 đồng, đã thu hồi trả lại cho ông T2 là đúng và phù hợp quy định của pháp luật.

+ Phương tiện gây án: 01 xe mô tô hiệu Honda Lead màu đỏ biển số 59P1-XXXXX, đăng ký sở hữu ông Võ Văn T4 là chú của bị cáo Võ Công H1. Ngày 09/8/2022, ông T4 đi làm để xe ở nhà, Võ Công H1 tự ý lấy xe đi chơi sau đó thực hiện hành vi cướp giật tài sản, ông T4 không biết, đã thu hồi và trả lại cho ông T4 là đúng và phù hợp quy định của pháp luật.

+ 01 điện thoại di động hiệu hiệu Iphone X màu trắng dung lượng 256GB đã qua sử dụng là tài sản cá nhân của Võ Công H1; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 màu trắng dung lượng 64GB đã qua sử dụng là tài sản cá nhân của Phạm Văn Trung H, các bị cáo không sử dụng điện thoại cho việc phạm tội nên trả lại cho các bị cáo.

+ 01 áo thun màu đen ngắn tay, cổ tròn, trên áo có chữ SWE, 1 quần jean dài màu xanh đen của Võ Công H1 mặc khi phạm tội, 01 áo khoác màu trắng hiệu mizuno, 1 áo thun ngắn tay, cổ tròn màu đen trên áo có chữ Angel Baby, 1 quần jean dài màu xanh của Phạm Văn T3 H1 mặc khi phạm tội là những vật cá nhân của các bị cáo và các bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên tịch thu và tiêu hủy.

[7] Về án phí: Do bị cáo Võ Công H1 Phạm Văn Trung H là người dưới 16 tuổi, theo quy định là trẻ em nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 54, 90, 91, 98, 101 và Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017 đối với bị cáo Võ Công H1 Phạm Văn Trung H;

Căn cứ Điều 106; Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[1] Tuyên bố các bị cáo Võ Công H1 Phạm Văn Trung H phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo : Võ Công Hiếu 01 (Một) năm 06 (S1) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 03 (Ba) năm tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Võ Công H1 cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Xử phạt bị cáo : Phạm Văn Trung H: 01 (Một) năm 6 (S1) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 03 (Ba) năm tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Phạm Văn Trung H cho Ủy ban nhân dân Phường I, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách .

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3, Điều 92 Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 2 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[2] Về vật chứng:

Trả lại cho bị cáo Võ Công H1 01 (Một) điện thoại di động hiệu hiệu Iphone X màu trắng, dung lượng 256GB đã qua sử dụng;

Trả lại cho bị cáo Phạm Văn T3 Hiếu 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone 12 màu trắng, dung lượng 64GB đã qua sử dụng.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) áo thun màu đen ngắn tay, cổ tròn, trên áo có chữ SWE, 01 (Một) quần jean dài màu xanh đen, 01 (Một) áo khoác màu trắng hiệu mizuno, 01 (Một) áo thun ngắn tay, cổ tròn màu đen trên áo có chữ Angel Baby, và 01 (Một) quần jean dài màu xanh.

Theo Biên bản giao nhận vật chứng số 54/BB/2023, ngày 22/5/2023

[3] Bị cáo Võ Công H1 Phạm Văn Trung H được miễn án phí hình sự sơ thẩm. [4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo, bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án, hoặc từ ngày niêm yết để Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Đã giải thích chế định án treo.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 75/2023/HS-ST

Số hiệu:75/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về