Bản án về tội cướp giật tài sản số 676/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 676/2023/HS-PT NGÀY 18/08/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 521/2023/HSPT ngày 14 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Quang Nh do có kháng cáo của người bị hại đối với bản án hình sự sơ thẩm số 101/2023/HS-ST ngày 6/6/2023 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Hà Nội.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Quang Nh, sinh ngày 13/11/2003; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi ở: Số 8 ngách 35 Linh Quang, phường V, quận Đ, thành phố Hà Nội; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; nghề nghiệp: tự do; trình độ học vấn: 6/12; con ông Nguyễn Minh Q và bà Phạm Tuyết Nh; tiền án, tiền sự: không; bị cáo đầu thú và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/02/2023; hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tam giam số 1 Công an thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại không kháng cáo: Chị Đỗ Thu H, sinh năm 1995; Địa chỉ: Tổ dân phố Hạ, T, N, Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận C, Hà Nội và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân quận C, Hà Nội thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 08/02/2023, Bùi Gia H1 rủ Nguyễn A đi cướp giật tài sản để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Nguyễn A đồng ý và hẹn H1 tối ngày 09/02/2023 đi cướp giật tài sản. Khoảng 20 giờ ngày 09/02/2023, Nguyễn A đi xe máy Honda Wave màu đen, không BKS đến đón H1 đi trên các tuyến phố tìm người sơ hở để cướp giật tài sản. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 09/02/2023, Nguyễn Tiến Đ đang ở nhà thì Nguyễn Quang Nh đi xe máy Honda Wave màu trắng, không BKS đến chơi. Tại đây, Nh rủ Đ đi cướp giật tài sản để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân, Đ đồng ý. Nh chở Đ đi ra khỏi nhà Đ được một đoạn thì Đ gọi điện cho H1 để rủ đi cướp giật tài sản và hai bên hẹn gặp nhau tại khu vực Vincom Nguyễn Chí Thanh. Nguyễn Tiến Đ thông báo cho Nguyễn Quang Nh có thêm H1 đi cướp giật tài sản cùng và Nh đồng ý rồi chở Đ ra chỗ hẹn.

Khoảng 20 giờ 15 phút cùng ngày, Nh và Đ gặp A và H1, hai xe máy đi song song với nhau, cách nhau khoảng 01 mét, xe A đi bên trong còn xe Nh đi bên ngoài. Lúc này Đ rủ cả nhóm đi cướp giật tài sản, tất cả đồng ý. Nh bảo “chúng mày lên giật đi, anh táng cho”. A và H1 hiểu là xe A sẽ trực tiếp cướp giật tài sản còn xe Nh sẽ ngăn cản người truy đuổi. Cả nhóm di cH1ển về hướng đường Trần Duy Hưng, khi đi đến trước nhà số 150 Trần Duy Hưng, phường Trung Hoà, C, Hà Nội thì Đ nhìn thấy chị Đỗ Thu H (sinh năm: 1995; HKTT: TDP Hạ, T, N, Hà Nội) đang ngồi phía sau xe máy Honda Airblade, màu xám, BKS 30N8-X do chồng là anh Nguyễn Công N (sinh năm: 1994; HKTT: TDP Hạ, T, N, Hà Nội) điều khiển đi cùng chiều, chị H cầm chiếc điện thoại Iphone 11 Promax, màu đen, loại 64GB, ốp nhựa màu trắng hồng trên tay phải. Thấy vậy, Đ báo A và H1 lên giật điện thoại. A điều khiển xe máy từ phía sau lên áp sát bên phải xe anh N và H1 dùng tay trái giật chiếc điện thoại di động của chị H. Sau khi H1 giật được điện thoại, A tăng ga phóng xe máy bỏ chạy về hướng siêu thị Big C rồi rẽ phải vào đường Phạm Hùng. Đồng thời, Nh điều khiển xe máy đi theo phía sau xe A để cản trở người dân truy bắt. Anh Nguyễn Công N phóng xe máy đuổi theo phía sau xe A. Khi đi đến điểm chờ xe buýt siêu thị Big C trên đường Phạm Hùng, Trung Hoà, C, Hà Nội thì đuổi kịp và chặn đầu xe của A, cùng lực lượng công an phường đang tuần tra và người dân đi đường bắt giữ được A và H1. Thấy vậy, Nh điều khiển xe máy chở Đ quay lại định giúp đỡ A và H1 nhưng do thấy đông người nên cả hai đã phóng xe bỏ chạy. Sau đó, Nh chở Đ về nhà của Đ rồi Nh đi về nhà. Thu giữ của Bùi Gia H1: 01 điện thoại Iphone 11 Promax, màu đen, loại 64GB, ốp nhựa màu trắng hồng; 01 điện thoại di động Iphone 6S màu hồng; thu giữ của Nguyễn A: 01 chiếc xe máy Honda wave màu đen không biển kiểm soát, trong cốp xe có 01 biển kiểm soát 29G2-X; 01 điện thoại di động Iphone 11 màu xanh.

Ngày 10/02/2023, Nguyễn Tiến Đ và Nguyễn Quang Nh đã đến Công an phường Trung Hoà đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình như trên. Thu giữ của Nguyễn Tiến Đ: 01 điện thoại di động OPPO.

Tiến hành dẫn giải Nguyễn Quang Nh, Nguyễn Tiến Đ, Bùi Gia H1, Nguyễn A xác định vị trí các đối tượng bàn bạc thực hiện hành vi cưới giật tài sản, vị trí các đối tượng phát hiện bị hại và vị trí thực hiện hành vi cướp giật, vị trí các đối tượng bị lực lượng công an và người dân bắt giữ.

Tiến hành cho bị hại là chị Đỗ Thu H, người làm chứng anh Nguyễn Công N và anh Nguyễn Tất Thành (sinh năm: 1976; HKTT: Khu 6, xã T, huyện L, Phú Thọ) nhận dạng, xác định: Nguyễn A và Bùi Gia H1 là các đối tượng đã thực hiện hành vi cướp giật điện thoại của chị H vào ngày 09/02/2023. Tiến hành cho Nguyễn Tiến Đ, Bùi Gia H1, Nguyễn Quang Nh, Nguyễn A nhận dạng, xác định các đối tượng đã bàn bạc cùng nhau thực hiện hành vi cướp giật tài sản của chị Đỗ Thu H vào ngày 09/02/2023.

Cơ quan điều tra đã dựng lại hiện trường vụ cướp giật tài sản, các đối tượng đã thực hiện lại toàn bộ diễn biến quá trình cướp giật tài sản, tẩu thoát và bị bắt phù hợp với lời khai và các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Kết luận định giá tài sản số 63/TCKH-BBĐGHĐ ngày 10/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS quận C kết luận: 01 điện thoại Iphone 11 Promax 64GB màu đen trị giá 8.280.000 đồng; 01 ốp nhựa màu trắng hồng không có cơ sở định giá. Tổng trị giá: 8.280.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 101/2023/HS-ST ngày 6/6/2023 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Hà Nội đã xét xử:

Tuyên bố các bị cáo bị cáo Nguyễn Tiến Đ, Bùi Gia H1, Nguyễn A và Nguyễn Quang Nh phạm tội “ Cướp giật tài sản’’ .

Áp dụng: Điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt Nguyễn Quang Nh 38 (ba mươi tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/2/2023.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

Ngày 13/6/2023, bị cáo Nguyễn Quang Nh có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khoan hồng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Căn cứ lời khai của các bị cáo, lời khai của người bị hại; kết luận định giá và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Quang Nh và các bị cáo khác về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Nguyễn Quang Nh là người rủ Nguyễn Tiến Đ đi cướp giật tài sản. Sau khi bàn bạc thống nhất, Nh phân công A chở H1 sẽ trực tiếp cướp giật tài sản, Nh chở Đ sẽ ngăn cản những người truy đuổi. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xét thấy mức án 38 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo là phù hợp, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo. Khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xét xử đối với các bị cáo là không chính xác, cần rút kinh nghiệm. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng:

Kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định nên hợp lệ được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, quá trình xét hỏi bị cáo Nguyễn Quang Nh không nhận tội, nhưng lời nói sau cùng bị cáo nhận tội xin giảm nhẹ hình phạt. Căn cứ lời khai ban đầu của bị cáo Nh phù hợp với lời khai của các bị cáo khác trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, lời khai của người bị hại; kết luận định giá và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ ngày 09/02/2023, Nguyễn Tiến Đ, Nguyễn A, Bùi Gia H1 và Nguyễn Quang Nh đã bàn bạc và thống nhất rủ nhau đi cướp giật tài sản. Nguyễn Quang Nh phân công A chở H1 để H1 sẽ trực tiếp giật tài sản, Đ và Nh sẽ đi xe máy theo hỗ trợ ngăn cản bị hại đuổi theo. Khi đi đến khu vực gần số nhà 154 Trần Duy Hưng, phường Trung Hoà, C, Hà Nội, phát hiện thấy chị Đỗ Thu H đang cầm điện thoại trên tay, Đ đã bảo A và H1 lên giật điện thoại; Nguyễn A điều khiển xe máy chở Bùi Gia H1 áp sát xe máy của chị Đỗ Thu H để Bùi Gia H1 ngồi đằng sau giật chiếc điện thoại di động Iphone 11 Promax 64GB màu đen trị giá 8.280.000 đồng của chị Đỗ Thu H; sau khi H1 giật được điện thoại, A tăng ga phóng xe máy bỏ chạy về hướng siêu thị Big C rồi rẽ phải vào đường Phạm Hùng, đến điểm chờ xe buýt siêu thị Big C trên đường Phạm Hùng, Trung Hoà, C, Hà Nội thì người bị hại đuổi kịp, A và H1 bị bắt.

Nguyễn Quang Nh điều khiển xe máy chở Nguyễn Tiến Đ đi sau xe của Nguyễn A mục đích để ngăn cản người truy đuổi nhưng khi thấy A và H1 bị bắt đã bỏ chạy, sau đó ra đầu thú. Với hành vi trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Quang Nh và các bị cáo khác về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan.

Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quang Nh thấy: Các bị cáo phạm tội với tính chất đồng phạm giản đơn, bị cáo Nh là người rủ rê Nguyễn Tiến Đ đi cướp giật tài sản. Sau khi bàn bạc thống nhất, Nh phân công A chở H1 sẽ trực tiếp cướp giật tài sản, Nh chở Đ sẽ ngăn cản những người truy đuổi. Hành vi của các bị cáo là nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, thể hiện sự liều lĩnh, coi thường pháp luật. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, sau khi phạm tội đã ra đầu thú; tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho người bị hại. Khi quyết định định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định xử phạt bị cáo Nh 38 tháng tù là phù hợp mặc dù tại cấp phúc thẩm (lời nói sau cùng) bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

Về án phí: Bị cáo không được chấp nhận kháng cáo nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự, 1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, xử:

Áp dụng: Điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự:

Xử phạt Nguyễn Quang Nh 38 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản“. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/02/2023.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí tòa án.

Bị cáo Nguyễn Quang Nh phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 18/8/2023. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 676/2023/HS-PT

Số hiệu:676/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về