Bản án về tội cướp giật tài sản số 67/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 67/2023/HS-ST NGÀY 28/12/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 84/2023/TLST- HS ngày 04 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

1. Nguyễn Chí L, sinh năm 1999, tại An Giang. Hộ khẩu thường trú: Ấp R, xã C, huyện T, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1980 và bà Trần Thị C, sinh năm 1979.

Tiền sự: Không;

Tiền án: Ngày 14/12/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp tài sản” tại Bản án số 137/2016/HSST, ngày 30/8/2017 bị cáo chấp hành xong việc nộp án phí vào ngày 05/10/2023.

- Ngày 30/5/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Cướp tài sản” tại Bản án số 23/2017/HSS (tổng hợp hình phạt tại Bản án sơ 137/2016/HSST thành 07 năm 03 tháng tù), ngày 24/9/2021 bị cáo L chấp hành xong hình phạt tù, chấp hành xong việc nộp án phí vào tháng 3 năm 2018.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/6/2023 sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay, có mặt.

Bị hại: Lê Thị Tuyết A, sinh năm 1978; địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương, có đơn xin vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Trần Thị M, sinh năm 1981; địa chỉ: Ấp A, xã C, huyện T, tỉnh An Giang, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu xài nên Nguyễn Chí L nảy sinh ý định cướp giật tài sản của người đi đường bán lấy tiền tiêu xài. Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 11/6/2023, L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Suzuki biển số 67N1 – X lưu thông trên đường Thủ Biên – Đất Cuốc theo hướng từ ngã ba Bưng Lương, xã Tân Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên về cầu Thủ Biên. Khi đi đến đoạn đường thuộc ấp Bưng Lương, xã Tân Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên thì L nhìn thấy bà Lê Thị Tuyết A đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision biển số 61N1 – X có đeo túi xách đang dừng bên đường nghe điện thoại nên L nảy sinh ý định cướp giật tài sản của bà A. Lúc này, L điều khiển xe vượt qua vị trí của bà A rồi rẽ vào hướng đường nhánh ĐH 414 đứng đợi bà A điều khiển xe đến. Khi phát hiện bà A điều khiển xe mô tô đến gần chỗ L đang đợi nên L điều khiển xe đi ngược chiều để giật tài sản của bà A. Cùng lúc này, bà A điều khiển xe mô tô đến và nhìn thấy xe chạy trong hẻm ra thì bà A điều khiển xe né tránh và bị ngã xe. Lúc này, L dừng xe mô tô lại rồi đi bộ lại vị trí té ngã của bà A và nói lớn “đi đâu đây, mày đi đâu đây” rồi dùng tay phải giật điện thoại Samsung Galaxy A04S của bà A đang cầm trên tay và tiếp tục giật túi xách bà A đang đeo trên người. Sau đó, L lên xe mô tô biển số 67N1 – X điều khiển đi về hướng tỉnh Đồng Nai. Khi đi được khoảng 05km đến đoạn đường thuộc ấp Giáp Lạc, xã Tân Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên thì L dừng xe mô tô để kiểm tra bên trong túi xách vừa chiếm đoạt được của bà A phát hiện bên trong có 01 (Một) chìa khóa xe, 01 (Một) mắt kính, 01 (Một) tai nghe điện thoại, 01 (Một) son môi và một số vật dụng cá nhân khác. L lấy mắt kính và tai nghe bỏ vào cốp xe của L, túi xách và một số vật dụng khác thì ném lại vườn cây tràm bên đường. Sau đó, L tiếp tục điều khiển xe đi đến huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai thuê nhà nghỉ ngủ qua đêm. Sau khi bị cướp giật tài sản bà A đến Công an xã Tân Mỹ trình báo vụ việc. Sau đó, Công an xã Tân Mỹ lập hồ sơ ban đầu chuyển cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên thụ lý theo thẩm quyền. Qua áp dụng các biện pháp nghiệp vụ, ngày 12/6/2023 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên xác định L đang ở thị trấn Vĩnh An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai là người chiếm đoạt điện thoại của bà A nên ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với L và tạm giữ đồ vật, tài sản có liên quan gồm:

01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu SUZUKI, SMASH màu: Đen - đỏ biển số: 67E1-X, số máy: E456-119637, số khung: RLSBE4DW0B0102477; 01 (Một) túi xách màu nâu có chữ “FASHION”; 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A04S; 01 (Một) tai nghe điện thoại màu trắng có chữ OPPO; 01 (Một) mắt kính màu đen xanh có hộp đựng có chữ “thế giới mắt kính”; 01 (Một) chìa khóa loại smartkey; 01 (Một) cây son môi; 01 (Một) Căn cước công dân tên Nguyễn Chí L.

Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số: 57/KLHĐ-ĐGTS ngày 30/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Bắc Tân Uyên, kết luận: 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A04S, 01 (Một) túi xách màu nâu có chữ “FASHION, 01 (Một) mắt kính màu đen xanh có hộp, 01 (Một) tai nghe điện thoại màu trắng có chữ OPPO tất cả đã qua sử dụng tại thời điểm chiếm đoạt có tổng trị giá 2.530.000 đồng (Hai triệu năm trăm ba mươi nghìn đồng).

Ngày 05/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên ra Quyết định xử lý vật chứng số: 29 trả lại toàn bộ tài sản này cho bà Lê Thị Tuyết Anh vào ngày 05/8/2023 và bà A không có yêu cầu bồi thường gì khác. Căn cước công dân tên Nguyễn Chí L không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã trả lại cho bị cáo L.

Xe mô tô nhãn hiệu SUZUKI, SMASH màu: Đen - đỏ biển số: 67E1-X, số máy: E456-119637, số khung: RLSBE4DW0B0102477 do ông Nguyễn Văn T đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Ông T chết ngày 17/3/2017. Bà Trần Thị M (vợ ông T) là dì ruột của Nguyễn Chí L quản lý xe mô tô này. Năm 2022, bà M cho L mượn xe mô tô này làm phương tiện đi lại, việc L sử dụng xe này làm phương tiện phạm tội bà M không biết. Kết quả tra cứu xe máy vật chứng tại Văn phòng cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương xác định xe này không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên ban hành thông báo tìm chủ sở hữu đối với xe mô tô biển số 67E1-X gửi Đài phát thanh và truyền hình Bình Dương để phát sóng trên sóng đài phát thanh tần số FM 92.5 MHz nhưng không có kết quả.

Cáo trạng số: 17/CT-VKS - BTU ngày 29/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên truy tố các bị cáo Nguyễn Chí L về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố của Cáo trạng, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả, hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Chí L: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bị cáo thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo: Nguyễn Chí L từ 01 (Một) 06 (Sáu) tháng đến 02 (Hai) năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Lê Thị Tuyết A không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp:

Xe mô tô nhãn hiệu SUZUKI, SMASH màu: đen - đỏ biển số: 67E1-X, số máy: E456-119637, số khung: RLSBE4DW0B0102477 do ông Nguyễn Văn T đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Ông T chết ngày 17/3/2017. Bà Trần Thị M (vợ của ông T) là dì ruột của Nguyễn Chí L quản lý xe mô tô này. Năm 2022, bà M cho L mượn xe mô tô này làm phương tiện đi lại, việc L sử dụng xe này làm phương tiện phạm tội bà M không biết nên đề nghị trả lại xe mô tô nêu trên cho bà M.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Chí L thống nhất Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, lời nói sau cùng của bị cáo xin lỗi bị hại và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị hại bà Lê Thị Tuyết A có đơn xin vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Trần Thị M vắng mặt đã có lời khai đầy đủ trong hồ sơ vụ án, sự vắng mặt của bà A, bà M không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Ngày 11/6/2023, tại đường ĐH 414 thuộc ấp Bưng Lương, xã Tân Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; Nguyễn Chí L có hành có hành vi cướp giật 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A04S, 01 (Một) túi xách màu nâu có chữ “FASHION, 01 (Một) mắt kính màu đen xanh có hộp, 01 (Một) tai nghe điện thoại màu trắng có chữ OPPO đã qua sử dụng và một số vật dụng cá nhân có tổng trị giá 2.530.000 đồng (Hai triệu năm trăm ba mươi nghìn đồng) của bà Lê Thị Tuyết A.

Như vậy, Cáo trạng số: 17/CT-VKS-BTU ngày 29/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên truy tố các bị cáo Nguyễn Chí L về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi cướp giật tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam, muốn hưởng thụ tài sản của người khác mà cố ý thực hiện hành vi trái pháp luật. Bản thân bị cáo ngày 14/12/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp tài sản” tại Bản án số 137/2016/HSST; ngày 30/5/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Cướp tài sản” tại Bản án số 23/2017/HSST. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù các bản án nêu trên, bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện bản thân trở thành công dân tốt lại tiếp tục phạm tội, điều đó phần nào thể hiện bị cáo coi thường pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt thật nghiêm tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt cho xã hội và đảm bảo công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo cho phù hợp.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Chí L đã bị Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp tài sản” theo Bản án số 137/2016/HSST, ngày 30/5/2017. Ngày 30/5/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Cướp tài sản” tại Bản án số 23/2017/HSST, sau khi chấp hành xong hình phạt bị cáo chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tôi nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét thấy, mức án đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về dân sự: Bị hại Lê Thị Tuyết A đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về việc xử lý vật chứng: Đối với xe mô tô nhãn hiệu SUZUKI, SMASH màu: đen - đỏ biển số: 67E1-X, số máy: E456-119637, số khung: RLSBE4DW0B0102477 do ông Nguyễn Văn T đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Ông Thái chết ngày 17/3/2017. Bà Trần Thị Lệ (vợ của ông T) là dì ruột của Nguyễn Chí L quản lý xe mô tô này. Năm 2022, bà Lệ cho L mượn xe mô tô này làm phương tiện đi lại, việc L sử dụng xe này làm phương tiện phạm tội bà Lệ không biết nên cần trả lại xe mô tô nêu trên cho bà M.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Chí L phạm tội “Cướp giật tài sản”.

2. Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:

2.1. Áp dụng khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự;

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Chí L 02 (Hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 12/6/2023.

3. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ vào điểm a, khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2, điểm a, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Trả lại bà Trần Thị M 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu SUZUKI, SMASH, màu: Đen- đỏ, biển số: 67E1-X; số máy: E456-119637, số khung RLSBE4DW0B0102477 do ông Nguyễn Văn T đứng tên đăng ký chủ sở hữu.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/12/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Tân Uyên).

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/PL/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án buộc:

- Bị cáo Nguyễn Chí L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đền vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 67/2023/HS-ST

Số hiệu:67/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về