Bản án về tội cướp giật tài sản số 65/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 65/2023/HS-ST NGÀY 27/11/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh T; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 68/2023/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2023/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2023;

Đối với các bị cáo: Đặng Kỳ Q; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không;

Sinh ngày: 12/3/1993 tại xã Y, huyện N, tỉnh T;

Nơi cư trú: Thôn Y, xã Y, huyện N, tỉnh T;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công giáo;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12;

Con ông: Đặng Phúc L và bà: Lê Thị T Gia đình có 06 người con, bị cáo là con thứ sáu; Vợ: Trần Thị M có 04 người con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2022.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 11/8/2023. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ, tạm giam Công an huyện N.

- Bị hại: Chị Hoàng Thị Thanh T1, sinh năm 1987, Địa chỉ: Khu phố A, thị trấn S, huyện T , tỉnh T có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Ngọc H sinh năm 1986, Địa chỉ: Số D đường B, tiểu khu B thị trấn N, huyện N, tỉnh T vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 07/8/2023, Đặng Kỳ Q (sinh năm 1993, trú tại thôn Y, xã Y, huyện N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Favor BKS 36N4-xxxx đi trên đường N - S đoạn qua khu phố H, thị trấn S, huyện Tthì thấy chị Hoàng Thị Thanh T1 (sinh năm 1987, trú tại khu phố A, thị trấn S, huyện T điều khiển xe mô tô BKS 60B1-xxxxx đi cùng chiều phía trước. Phát hiện tay trái chị T1 đang cầm điện thoại nhãn hiệu Iphone 11 Promax để nói chuyện nên Q nảy sinh ý định giật điện thoại để bán lấy tiền tiêu xài. Q điều khiển xe chạy lên ngang xe chị T1 dùng tay phải giật lấy điện thoại khiến chị T1 ngã xuống đường, điện thoại văng ra. Q dừng xe xuống nhặt điện thoại rồi lên xe bỏ chạy về nhà.

Khoảng 21 giờ cùng ngày, Q đến cửa hàng điện thoại Ngọc Hở số D đường B, tiểu khu B, thị trấn N, huyện N để chạy lại phần mềm (do điện thoại có mật khẩu, chạy lại phần mềm để xóa mật khẩu bán với giá cao). Anh Nguyễn Ngọc H (sinh năm 1986) là chủ cửa hàng nói với Q phải có mật khẩu icloud mới làm được. Q nói điện thoại nhặt được nên không biết mật khẩu và bán lại cho anh H với giá 1.500.000 đồng.

Ngày 10/8/2023, Đặng Kỳ Q đến Công an huyện T đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội và giao nộp: 01 xe mô tô nhãn hiệu Favor BKS 36N4-xxxx; số tiền 1.500.000 đồng; 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo A77S, bên trong gắn sim số 0587.174.xxx; 02 mũ bảo hiểm.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 23/KL-HĐĐG ngày 15/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện T chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 8.500.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định thương tích số 1472/KTTTCT-PYTH ngày 15/8/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Tkết luận: Tỷ lệ thương tích của chị Hoàng Thị Thanh T1 là 0% .

Tại kết luận giám định kỹ thuật số số 3371/KL-KTHS ngày 25/9/2023 của Phòng K Công an tỉnh T kết luận: Không phát hiện dấu hiệu chỉnh sửa, cắt ghép đối với 02 video ghi lại hình ảnh Q đến cửa hàng bán điện thoại cho anh H.

Đối với anh Nguyễn Ngọc H không biết tài sản mà Q bán là do phạm tội, cơ quan điều tra không xử lý.

Về dân sự:

- Bị hại chị Hoàng Thị Thanh T1 đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì khác.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Ngọc H không yêu cầu bồi thường.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Favor BKS 36N4-xxxx là của ông Đặng Phúc L (bố đẻ Q Ông T không biết việc Q sử dụng vào mục đích phạm tội, CQĐT đã trả lại tài sản cho ông L.

Vật chứng và các đồ vật liên quan là: số tiền 1.500.000 đồng; 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo A77S, bên trong gắn sim số 0587.174.xxx; 02 mũ bảo hiểm được quản lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 80/CT-VKSTX ngày 26/10/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện X đã truy tố: Bị cáo Đặng Kỳ Q về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng đã nêu và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Bị hại là Hoàng Thị Thanh T1: Có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đặng Kỳ Q. Về phần dân sự: chị T1 không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì.

Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bị cáo Đặng Kỳ Q phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Về hình phạt đề nghị: Áp dụng: điểm d khoản 2 Điều 171; Điều 38; điểm S khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đặng Kỳ Q từ 39 đến 42 tháng tù.

Về vật chứng: Đề nghị tịch thu số tiền 1.500.000 đồng; 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo A77S, bên trong gắn sim số 0587.174.xxx sung vào ngân sách nhà nước; đề nghị tiêu hủy 02 mũ bảo hiểm là vật chứng trong vụ án.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chị án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Bị cáo, bị hại không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt, được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; Không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; lời khai của bị hai, người làm chứng; Biên bản khám nghiệm hiện trường, Kết luận giám định, vật chứng thu giữ được và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận:

Chiều ngày 07/8/2023 tại đường N - S đoạn qua khu phố H, thị trấn S, huyện T Đặng Kỳ Q điều khiển xe mô tô BKS 36N4-xxxx áp sát vào bên trái xe mô tô BKS 60B1-xxxxx do chị Trần Thị Thanh T2 điều khiển. Q dùng tay phải giật chiếc điện thoại di động nhăn hiệu Iphone 11 Promax trên tay chị T2 khiến chị T2 ngã xuống đường và điện thoại rơi ra. Q xuống xe nhặt lấy điện thoại, lên xe rồi tăng ga bỏ chạy. Điện thoại Q đã chiếm đoạt được của bị hại có giá trị là 8.500.000 đồng.

Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Bị cáo sử dụng xe mô tô để giật tài sản, đây là thủ đoạn nguy hiểm, dễ dẫn đến gây thương tích và có thể dẫn đến chết người. Do đó, hành vi của bị cáo Đặng Kỳ Q đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản”, theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự; Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện X truy tố đối với bị cáo về tội danh và điều luật như trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Đặng Kỳ Q đã thực hiện hành vi cướp giật tài sản với tính chất tội phạm rất nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản và sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ; gây nên tâm lý hoang mang, lo lắng, bất bình trong nhân dân, đồng thời làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm minh, bắt cách ly bị cáo ra khỏi xã hội trong một thời gian nhất định mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên xét thấy bị cáo phạm tội lần đầu; không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú nên, Người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, cần thiết xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo, sớm trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về phần dân sự: Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Favor BKS 36N4-xxxx là của ông Đặng Phúc L (bố đẻ Q Ông L không biết việc Q sử dụng vào mục đích phạm tội, CQĐT đã trả lại tài sản cho ông L là phù hợp nên không xem xét.

Người bị hại chị Hoàng Thị Thanh T1 đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì khác, nên không xem xét.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Ngọc H không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

[6] Tang vật thu giữ gồm: số tiền 1.500.000 đồng; 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo A77S, bên trong gắn sim số 0587.174.xxx; 02 mũ bảo hiểm Số tiền 1.500.000đ do bị cáo phạm tội mà có; 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo A77S, bên trong gắn sim số 0587.174.xxx; bị cáo đã dùng để liên lạc khi giao dịch bán chiếc điện thoại của người bị hại nên tịch thu, sung công quỹ nhà nước.

Tiêu hủy 02 mũ bảo hiểm không còn giá trị sử dụng.

Toàn bộ số tang vật trên hiện đang được quản lý tại Chi cục thi hành án dân sự huyện X theo đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Tuyên bố: Bị cáo Đặng Kỳ Q phạm tội “Cướp giật tài sản”;

- Xử phạt bị cáo Đặng Kỳ Q 39 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngay bắt tạm giam (11/8/2023).

2. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu, sung công quỹ nhà nước số tiền 1.500.000đ do phạm tội mà có và 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo A77S, bên trong gắn sim số 0587.174.xxx.

Tuyên tịch thu tiêu hủy 02 mũ bảo hiểm không còn giá trị sử dụng.

Toàn bộ số tang vật trên hiện đang được quản lý tại Chi cục thi hành án dân sự huyện X theo biên bản giao nhận vật chứng số 17 ngày 21/10/2023.

3. Về án phí: Buộc các bị cáo Đặng Kỳ Q phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Chị Hoàng Thị Thanh T1 và anh Nguyễn Ngọc H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 65/2023/HS-ST

Số hiệu:65/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thọ Xuân - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về