Bản án về tội cướp giật tài sản số 63/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 63/2021/HS-ST NGÀY 11/05/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 06 và 11 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 46/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

TRẦN VĂN V: sinh ngày 06 tháng 12 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: đường H, phường T, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: đường L, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn H (chết) và bà Hồ Thị H, sinh năm 1962; vợ: Phạm Thị P, sinh năm 1989; con: 02 người (lớn sinh năm 2017; nhỏ sinh năm 2019).

Nhân thân:

- Ngày 06/9/2005 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “cướp giật tài sản” chấp hành xong ngày 26/10/2006 (Bản án số 1292/2005/HSST);

- Ngày 19/6/2009 Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù về tội “cướp giật tài sản” chấp hành xong ngày 30/8/2010 (Bản án số 168/2009/HSST);

- Ngày 23/02/2011 Tòa án nhân dân quận Tân Phú xử phạt 08 (tám) năm tù về tội “cướp tài sản” chấp hành xong ngày 16/6/2016 (Bản án số 38/2011/HSST) Tiền án, tiền sự: chưa có Tạm giữ, tạm giam ngày 09/11/2020 (có mặt)

Bị hại: chị Lê Thị Thùy T, sinh năm 2002, nơi cư trú: đường L, Phường M, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Phạm Thị P, sinh năm 1989, địa chỉ: đường H, phường H, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, chỗ ở: đường T, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 09/11/2020 TRẦN VĂN V điều khiển xe gắn máy hiệu Yamaha Luvias màu vàng đen biển số 59M1-557.87 lưu thông trên đường Nguyễn Thái Bình hướng ra đường Trường Chinh thì nhìn thấy chị Lê Thị Thùy T đang ngồi phía sau xe gắn máy do anh Đỗ Phi H điều khiển đang chạy cùng chiều phía trước, trên tay của chị T có cầm một điện thoại di động hiệu iPhone 8 Plus nên nảy sinh ý định cướp giật. V chạy xe theo đến đoạn trước nhà số 220 đường Nguyễn Thái Bình, Phường 12, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh thì điều khiển cho xe từ phía sau chạy lên áp sát phía bên phải của T đồng thời dùng tay trái giật điện thoại của chị T đang cầm trên tay rồi tăng ga để tẩu thoát, tuy nhiên do tay lái xe của V vướng vào xe anh Hoàng nên xe V ngã xuống đường làm chiếc điện thoại di động rớt xuống đường, V ngồi dậy dựng xe máy định bỏ chạy thì bị quần chúng nhân dân bắt giữ giao cho Công an Phường 12 quận Tân Bình cùng tang vật và phương tiện để xử lý.

Vật chứng vụ án:

01 điện thoại di động hiệu iPhone 8 Plus màu hồng, kết quả định giá trong tố tụng hình sự trị giá 8.500.000 đồng đã thu hồi trả lại cho chị T.

01 xe gắn máy Yamaha Luvias màu vàng đen biển số 59M1-557.87 (phương tiện thực hiện hành vi cướp giật) qua điều tra xác minh xe do Trần Văn V đứng tên đăng ký chủ sở hữu 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A7 màu xanh, một bộ quần áo V mặc khi phạm tội.

Một đĩa DVD chứa dữ liệu camera ghi nhận việc Trần Văn V bị ngã xe sau khi cướp giật điện thoại của chị Trang Tại Cơ quan công an và tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình Trần Văn V đã thừa nhận hành vi phạm tội.

Tại bản cáo trạng số 51/CT-VKSQTB ngày 22 tháng 3 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo TRẦN VĂN V về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã trình bày luận tội, cụ thể: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa, thì hành vi TRẦN VĂN V sử dụng xe gắn máy làm phương tiện để tiếp cận bị hại thực hiện hành vi cướp giật 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus trị giá 8.500.000 đồng đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, phạm tội do cố ý, bị cáo có nhân thân xấu nên cần xử phạt bị cáo mức án phù hợp để có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng gây ra thiệt hại để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Từ căn cứ trên đề nghị áp dụng điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm d, khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo TRẦN VĂN V từ 4 năm đến 5 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự:

- Bị hại chị Lê Thị Thùy T đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét lại.

Về vật chứng vụ án:

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu iPhone 8 Plus màu hồng, đã thu hồi trả lại cho chị T và chị T không có yêu cầu gì khác nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét lại.

- 01 xe gắn máy Yamaha Luvias màu vàng đen biển số 59M1-557.87, có số khung: RLCLASK10DY004972, số máy 1SK1004985. Qúa trình điều tra xác định chiếc xe là tài sản riêng của bị cáo có trước khi kết hôn, do bị cáo đăng ký chủ sở hữu. Xét chiếc xe gắn máy là tài sản của bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A7 màu xanh thu giữ của bị cáo. Xét là tài sản của bị cáo, không liên quan tới hành vi phạm tội của bị cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo V.

- 01 áo sơ mi màu xanh dài tay và 01 quần jean dài màu xám là bộ quần áo V mặc khi phạm tội. Bị cáo không có nhu cầu lấy lại và không còn giá trị nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

- 01 đĩa DVD chưa dữ liệu camera ghi nhận việc V bị ngã xe sau khi cướp giật điện thoại của chị T. Xét đây là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu giao cho Tòa án nhân dân quận Tân Bình để lưu vào cùng với hồ sơ vụ án.

Sau phần luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận, tranh tụng với Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhằm giúp cho bị cáo sửa chữa lỗi lầm của mình và sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo theo các tài liệu, chứng cứ thu thập được thì việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình ra quyết định tạm giữ, khởi tố vụ án, khởi tố bị can ra quyết định tạm giam để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với bị cáo TRẦN VĂN V về hành vi “Cướp giật tài sản” quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có cơ sở, đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, thẩm tra các tài liệu, chứng cứ, luận tội, tranh tụng nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua việc thẩm tra các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì hành vi sử dụng xe gắn máy làm phương tiện phạm tội của bị cáo là hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật nhà nước bảo vệ, làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an tại địa phương, bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội do cố ý nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Đồng thời qua phần phân tích, đánh giá, nhận định của đại diện Viện kiểm sát trong phần luận tội, nhận thấy những căn cứ Viện kiểm sát viện dẫn chứng minh hành vi phạm tội để đề nghị truy tố, xử phạt bị cáo như đã nêu trên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Do muốn có tiền phục vụ nhu cầu cá nhân mà bị cáo đã cố ý phạm tội, hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành, đã làm ảnh hưởng đến trật tự, trị an tại địa phương, bị cáo có nhân thân xấu nên cần xử phạt bị cáo mức án phù hợp để có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây ra thiệt hại. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Việc đại diện viện kiểm sát căn cứ tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân để đề nghị áp dụng điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38, điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Lê Thị Thùy T đã được nhận lại tài sản, hiện nay không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét lại như đề nghị của Viện kiểm sát.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu iPhone 8 Plus màu hồng, đã thu hồi trả lại cho chị T và chị T không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét lại theo như đề nghị của Viện kiểm sát - Đối với 01 xe gắn máy Yamaha Luvias màu vàng đen biển số 59M1- 557.87, có số khung: RLCLASK10DY004972, số máy 1SK1004985. Qúa trình điều tra xác định chiếc xe là tài sản riêng của bị cáo có trước khi kết hôn, do bị cáo đăng ký chủ sở hữu. Xét chiếc xe gắn máy là tài sản của bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên Hội đồng xét xử tịch thu sung vào ngân sách nhà nước như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A7 màu xanh thu giữ của bị cáo. Xét là tài sản của bị cáo, không liên quan tới hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo V như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với 01 áo sơ mi màu xanh dài tay và 01 quần jean dài màu xám là bộ quần áo V mặc khi phạm tội. Bị cáo không có nhu cầu lấy lại và không còn giá trị nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với 01 đĩa DVD chưa dữ liệu camera ghi nhận việc V bị ngã xe sau khi cướp giật điện thoại của chị Trang. Xét đây là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử tịch thu giao cho Tòa án nhân dân quận Tân Bình để lưu vào cùng với hồ sơ vụ án như đề nghị của Viện kiểm sát.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Căn cứ Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

[1] Tuyên bố bị cáo TRẦN VĂN V phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt: TRẦN VĂN V 3 (ba) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” Thời hạn tù tính từ ngày 09/11/2020 [2] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước chiếc xe gắn máy Yamaha Luvias màu vàng đen biển số 59M1-557.87, có số khung: RLCL1SK10DY004972, số máy 1SK1004985 do TRẦN VĂN V đứng tên đăng ký chủ sở hữu (tình trạng vật chứng như theo phiếu nhập kho vật chứng số 31 ngày 02/02/2021 của Cơ quan cánh sát điều tra quận Tân Bình).

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A7 màu xanh (tình trạng vật chứng như theo phiếu nhập kho vật chứng số 31 ngày 02/02/2021 của Cơ quan cánh sát điều tra quận Tân Bình).

- Tịch thu và tiêu hủy 01 áo sơ mi màu xanh dài tay và 01 quần jean dài màu xám (tình trạng vật chứng như theo phiếu nhập kho vật chứng số 31 ngày 02/02/2021 của Cơ quan cánh sát điều tra quận Tân Bình).

[3] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sư có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Hội đồng xét xử đã giải thích về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án cho đương sự theo quy định tại Điều 26 Luật Thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014).

[4] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án tống đạt, niêm yết bản án hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 63/2021/HS-ST

Số hiệu:63/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về