Bản án về tội cướp giật tài sản số 58/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 58/2024/HS-ST NGÀY 28/03/2024 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận H, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2024/TLST - HS ngày 08 tháng 03 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2024/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

Trần Quang T - Sinh năm: 1971; Giới tính: Nam; ĐKHKTT: phường P, quận H, thành phố H; Chỗ ở: phường M, quận H, thành phố H; Nghề nghiệp: Không; Văn hóa: 8/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Trần Văn K (đã chết) và bà Nguyễn Thị A (đã chết).

Nhân thân:

- Ngày 17/02/1990, Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 01 năm cải tạo không giam giữ về tội Vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Xã hội chủ nghĩa. (Đã xóa án tích)

- Ngày 31/12/1993, Tòa án nhân dân quận H, thành phố H xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội Gây rối trật tự công cộng. (Đã xóa án tích).

- Ngày 23/05/1995, Tòa án nhân dân quận H, thành phố H xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân. Tổng hợp hình phạt 15 tháng tù treo tổng cộng 39 tháng tù. (Đã xóa án tích)

- Ngày 01/02/2000, Tòa án nhân dân thành phố H xét xử phúc thẩm xử phạt 24 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích. (Đã xóa án tích).

Tiền án,tiền sự:

- Ngày 29/05/2020, Tòa án nhân dân quận H, thành phố H xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (Chưa xóa án tích).

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 10/10/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an thành phố H; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Lưu Thị Thu H, sinh năm: 1980; HKTT: Thôn V, xã T, huyện T, thành phố H. Vắng mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn H.

Nguời đại diện theo ủy quyền: Anh Đào Văn L – Chuyên viên pháp lý tố tụng là nhân viên thuộc phòng thu hồi nợ Công ty. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 10/10/2023 tại khu vực trước cổng trường Tiểu học Lê Văn Tám (Địa chỉ: Số 74, ngõ 40, phố Tạ Quang Bửu, phường Bách Khoa, quận H, thành phố H), chị Lưu Thị Thu H đang ngồi trên xe máy dựng dưới đường, trên tay sử dụng chiếc điện thoại Iphone XS MAX màu đen thì bị Trần Quang T điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha Janus đeo BKS: 29L5 - xxxxx áp sát, dùng tay phải cướp giật chiếc điện thoại và phóng xe bỏ chạy theo hướng ngõ 106, phố Lê Thanh Nghị, phường Bách Khoa, quận H, thành phố H. Ngay sau đó, chị H hô hoán "Cướp, Cướp" rồi chạy bộ đuổi theo thì có Tổ công tác Công an phường Bách Khoa, quận H, thành phố H phát hiện và truy bắt được T tại trước cửa số nhà 21, ngõ 106, phố Lê Thanh Nghị, phường Bách Khoa, quận H, thành phố H. Tại chỗ, Trần Quang T thừa nhận hành vi cướp giật 01 chiếc điện thoại Iphone XS Max của chị H tại trước cửa số nhà 74, ngõ 40, phố Tạ Quang Bửu, phường Bách Khoa, quận H, thành phố H. Cơ quan Công an đã thu giữ của T 01 điện Iphone XS MAX màu đen; 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Janus mang BKS: 29D2 - 775.98; 01 Biển kiểm soát: 29L5 - xxxxx và đưa T cùng vật chứng về trụ sở để làm việc.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H, thành phố H đã ra Yêu cầu định giá tài sản số: 226 ngày 04/11/2023 gửi Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự quận H, thành phố H yêu cầu định giá tài sản bị trộm cắp. Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số: 18 ngày 29/11/2023 kết luận: "01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone XS Max, màu đen, số IMEI: 353102100340691 có trị giá 6.000.000 đồng." Quá trình điều tra, bị can Trần Quang T khai nhận: Khoảng 19h30' ngày 10/10/2023, do không có tiền tiêu xài nên T đã dùng BKS: 29L5 - xxxxx dán băng dính đè lên BKS: 29D2 - xxxxx của chiếc xe máy Yamaha Janus của T rồi điều khiển xe đi dọc các tuyến phố xem có ai sơ hở để cướp giật tài sản. Đến khoảng 20h00 cùng ngày, khi T đi đến trước cổng trường tiểu học Lê Văn Tám - Địa chỉ: Số 74, ngõ 40, phố Tạ Quang Bửu, phường Bách Khoa, quận H, thành phố H thì phát hiện chị H đang ngồi trên xe máy dựng dưới lề đường, trên tay sử dụng điện thoại Iphone XS Max. T chờ đến khi chị H sơ hở liền điều khiển xe máy áp sát, dùng tay phải giật chiếc điện thoại di động trên tay chị H rồi chuyển chiếc điện thoại sang tay trái và phóng xe bỏ chạy về hướng ngõ 106 Lê Thanh Nghị, quận H, thành phố H. Khi chạy đến trước cửa số nhà 21, ngõ 106, phố Lê Thanh Nghị, quận H, thành phố H, Tbị Tổ công tác Công an phường Bách Khoa bắt giữ như trên. Về nguồn gốc chiếc biển kiểm soát: 29L5 - xxxxx, T khai nhặt được trên đường và mang về để sử dụng khi đi cướp giật tài sản. Lời khai của bị can phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Đối với 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone XS Max, màu đen, số IMEI: 353102100340691, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là chị Lưu Thị Thu H. Cơ quan CSĐT - Công an quận H, thành phố H đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả lại đồ vật tài sản theo quy định của pháp luật. Chị H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Janus màu đen mang BKS: 29D2 - xxxxx có số khung: RLCSEC840PY014586, số máy: E3X8E - 120851. Quá trình điều tra xác định Trần Quang T là chủ sở hữu đăng ký xe và là phương tiện Tsử dụng để thực hiện hành vi Cướp giật tài sản. Ngoài ra, chiếc xe trên hiện đang là tài sản thế chấp trong hợp đồng mua trả góp với Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn H.

Đối với 01 biến kiếm soát: 29L5 - xxxxx, quá trình điều tra xác định là biển kiểm soát của xe máy Hoa Wave SM: JA39E0223846, SK: RLHJA3906HY223811 có đăng ký chủ sở hữu là anh Nguyễn Anh T (SN: 1999; HKTT: TDP T, phường T, quận B, thành phố H). Tại cơ quan Công an, anh T khai mua chiếc xe máy mang BKS 29L5 - xxxxx từ năm 2017 và đã bán lại cho một người đàn ông không quen biết vào năm 2019. Hiện anh T không còn liên quan đến chiếc xe trên, anh T không có yêu cầu gì về dân sự.

Tại bản cáo trạng số: 25/CT-VKS-HS ngày 05/03/2024 của Viện kiểm sát nhân dân quận H, thành phố H đã truy tố Trần Quang T về tội Cướp giật tài sản quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Quang T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận H, thành phố H giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng mà Viện kiểm sát quận H, thành phố H đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; Điều 38; Điều 46; Điều 47; Điểm s khoản 1 điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 để xử bị cáo Trần Quang T từ 42 tháng tù đến 48 tháng tù.

- Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 biển kiếm soát 29L5 - xxxxx, quá trình điều tra xác định là biển kiểm soát của xe máy Honda Wave SM: JA39E0223846, SK: RLHJA3906HY223811 có đăng ký chủ sở hữu là anh Nguyễn Anh T (SN: 1999; HKTT: quận B, thành phố H).

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Janus màu đen mang BKS: 29D2 - xxxxx có số khung RLCSEC840PY014586, số máy: E3X8E - 120851.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận H, thành phố H, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận H, thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Thành tố tụng, người Thành tố tụng. Do đó các hành vi tố tụng và quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà hôm nay qua xét hỏi, bị cáo Trần Quang T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã nêu. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là thống nhất với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với báo cáo bắt giữ, vật chứng thu được của vụ án, phù hợp với kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 10/10/2023, tại khu vực trước cổng trường tiểu học Lê Văn Tám (74 ngõ 40 Tạ Quang Bửu, phường Bách Khoa, quận H, thành phố H, Trần Quang T có hành vi cướp giật 01 chiếc điện thoại di động Iphone XS Max của chị Lưu Thị Thu H, tài sản có trị giá 6.000.000 đồng. Chị H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự. Hành vi của bị cáo Trần Quang T đã phạm vào tội Cướp giật tài sản.

Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận H, thành phố H truy tố bị cáo Trần Quang T về tội Cướp giật tài sản theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng luật.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã dùng thủ đoạn nguy hiểm xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được Bộ luật hình sự bảo vệ. Xét tính chất, mức độ thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

Bị cáo Trần Quang T có nhân thân xấu. Bị cáo có 05 tiền án về các tội Vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Xã hội chủ nghĩa, Gây rối trật tự công cộng, Trộm cắp tài sản của công dân, Cố ý gây thương tích, Mua bán trái phép chất ma túy; trong đó có 01 tiền án chưa được xóa án tích, lần phạm tội này là tái phạm; thể hiện bị cáo rất coi thường pháp luật. Căn cứ mức độ, tính chất hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo nên cần có mức hình phạt nghiêm cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội đủ để cải tạo giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và đáp ứng phòng, chống tội phạm.

Ngoài ra, Hội đồng xét xử xem xét bị cáo Trần Quang T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

[4] Về trách nhiệm dân sự; hình phạt phụ: Người bị hại là chị Lưu Thị Thu H đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không có yêu cầu bồi thường về dân sự nên Hội đồng xét xử không xét.

Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên miễn phạt tiền cho bị cáo.

[5] Xử lý vật chứng:

Đối với 01 biển kiếm soát 29L5 - xxxxx, quá trình điều tra xác định là biển kiểm soát của xe máy Honda Wave SM: JA39E0223846, SK:

RLHJA3906HY223811 có đăng ký chủ sở hữu là anh Nguyễn Anh T (SN: 1999; HKTT: phường T, quận B, thành phố H). Tại cơ quan Công an, anh T khai mua chiếc xe máy mang BKS 29L5 - xxxxx từ năm 2017 và đã bán lại cho một người đàn ông không quen biết vào năm 2019. Hiện anh T không còn liên quan đến chiếc xe trên, anh T không có yêu cầu gì về dân sự. Đối với biển kiểm soát này cần tịch thu tiêu hủy do không xác định được người quản lý hợp pháp và không còn giá trị sử dụng.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Janus màu đen mang BKS: 29D2 - xxxxx có số khung RLCSEC840PY014586, số máy: E3X8E - 120851. Quá trình điều tra xác định Trần Quang T là chủ sở hữu đăng ký xe và là phương tiện Tsử dụng để thực hiện hành vi Cướp giật tài sản. Ngoài ra, chiếc xe trên hiện đang là tài sản thế chấp trong hợp đồng mua trả góp với Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn H. Quá trình giải quyết vụ án, Công ty H đề nghị nhận lại tài sản thế chấp là xe máy nói trên. Xét thấy, cần giao vật chứng này cho Công ty tài chính TNHH H để xử lý theo Hợp đồng thế chấp tài sản số: 2W028675361 ngày 13/9/2023 giữa Công ty tài chính TNHH H và Trần Quang T.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

[7] Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Quang T phạm tội "Cướp giật tài sản".

Căn cứ:

- Điểm c khoản 2 Điều 174; Điều 38; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự.

- Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử phạt: Trần Quang T 44 (bốn mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/10/2023.

Xử lý vật chứng:

Giao 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Janus màu đen mang BKS: 29D2 - xxxxx có số khung RLCSEC840PY014586, số máy: E3X8E – 120851 cho Công ty tài chính TNHH H để xử lý theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 2W028675361 ngày 13/9/2023 giữa Công ty tài chính TNHH H và Trần Quang T.

Tịch thu tiêu hủy 01 biển kiếm soát 29L5 - xxxxx, quá trình điều tra xác định là biển kiểm soát của xe máy Honda Wave SM: JA39E0223846, SK: RLHJA3906HY223811.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số: 111 ngày 19/3/2024 của Chi cục thi hành án dân sự quận H, thành phố H).

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

64
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 58/2024/HS-ST

Số hiệu:58/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về