TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỜ ĐỎ, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 56/2023/HS-ST NGÀY 27/12/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 12 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ và Nhà tạm giữ Công an huyện C, thành phố Cần Thơ đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 56/2023/HSST ngày 01 tháng 12 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2023 đối với:
Bị cáo Trần Ngọc D, sinh ngày 21/9/1999, tại huyện P, tỉnh Bạc Liêu; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp L, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bạc Liêu; Chỗ ở hiện nay: Ấp H, xã H, huyện P, tỉnh Hậu Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn N (chết) và bà Đặng Kim T; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 27/10/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện C, thành phố Cần Thơ. Bị cáo có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Hữu H, Luật sư Công ty L4 thuộc Đoàn luật sư tỉnh B. Có mặt.
- Bị hại: Bà Trương Kiều D1-Chủ Doanh nghiệp tư nhân T7; Địa chỉ: Ấp T, thị trấn C, huyện C, TP Cần Thơ.
Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Đỗ Gia T1, sinh năm 1987; Địa chỉ: Ấp T, thị trấn C, huyện C, TP Cần Thơ, là đại diện theo ủy quyền, văn bản ủy quyền ngày 19/12/2023. Có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Đỗ Gia T1, sinh năm 1987. Có mặt.
Địa chỉ: Ấp T, thị trấn C, huyện C, TP Cần Thơ.
2. Công ty TNHH S Địa chỉ: số B L, phường T, quận N, TP Cần Thơ Người đại diện theo pháp luật: Bà Trần Kim L1, sinh năm 1959, chức vụ: Giám đốc. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
Địa chỉ: Số B L, phường T, quận N, TP Cần Thơ 3. Chị Phạm Hồng T2, sinh năm 2003. Có mặt.
Địa chỉ: Âp M, xã T, huyện V, tỉnh Hậu Giang.
4. Ồng Nguyễn Vũ T3, sinh năm 1981. vắng mặt.
Địa chỉ: số A đường N, phường H, quận N, TP Cần Thơ 5. Bà Đặng Kim T, sinh năm 1960. Có mặt.
Địa chỉ: Ấp L, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bạc Liêu.
6. Anh Trần Trung Đ, sinh năm 1999. Có mặt.
Địa chỉ: Ấp L, xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai.
- Người làm chứng:
1. Bà Nguyễn Thị Ánh Đ1, sinh năm 1982. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
Địa chỉ: Số A Hồ T, khu V, phường C, quận N, TP Cần Thơ.
2. Ông Trần Văn T4, sinh năm 1974. Vắng mặt.
Địa chỉ: Ấp L, xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai.
3. Bà Đặng Thị Hồng L2, sinh năm 1978. Vắng mặt.
Địa chỉ: Ấp T, xã B, huyện P, tỉnh Hậu Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 8 giờ 00 phút ngày 23/10/2023 bị cáo Trần Ngọc D điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 60B6 - 601.xx từ nhà trọ T8 ở ấp H, xã H, huyện P, tỉnh Hậu Giang đi đến địa bàn huyện C, TP Cần Thơ đề tìm các cửa hàng kinh doanh vàng vắng người nhằm thực hiện hành vi cướp giật tài sản. Đến khoảng 12 giờ 00 phút cùng ngày, bị cáo điều khiển xe mô tô chạy vòng quanh khu vực chợ C, huyện C thì phát hiện Doanh nghiệp tư nhân T5 vàng G vắng người nên điều khiển xe chạy qua lại tiệm 02 vòng để quan sát và dừng xe lại dưới lộ, đề sẵn chìa khóa trên xe, quay đầu xe hướng ra lộ để khi ra dễ tẩu thoát. Bị cáo đi vào bên trong cửa hàng để giả vờ hỏi mua vàng thì gặp ông Đỗ Gia T1 nên bị cáo hỏi mua 01 chiếc lắc nam bằng vàng và yêu cầu ông T1 lấy chiếc lắc trong tủ kính loại lắc đũa dây lật, dạng dẹp, được thiết kế nhiều khoen vàng nhỏ tạo thành sợi giống như sợi dây xích, loại vàng 610, trọng lượng 2,162 lượng. Bị cáo đeo chiếc lắc vào tay trái rồi tiếp tục yêu cầu ông T1 lấy 01 chiếc lắc khác cho xem và yêu cầu ông T1 cân thử trọng lượng chiếc lắc này và tính tiền. Lợi dụng lúc ông T1 đang quay lưng tính tiền khi bị cáo còn đang đeo chiếc lắc trên tay trái thì bị cáo nhanh chóng chạy ra xe, nổ máy điều khiển xe bỏ chạy để chiếm đoạt tài sản và tẩu thoát. Sau đó bị cáo đem chiếc lắc đến Công ty TNHH S, địa điểm số A Hồ T, khu V, phường C, quận N, TP Cần Thơ bán được 72.000.000 đồng rồi bị cáo đến cửa hàng điện thoại di động Anh Q chuộc 01 điện thoại di động Iphone 14 Pro Max với số tiền 11.000.000 đồng; bị cáo chuyển vào tài khoản ngân hàng của Phạm Hồng T2 11.500.000 đồng và chuyển vào tài khoản ngân hàng của bị cáo 46.000.000 đồng, còn lại 3.500.000 đồng thì tiêu xài cá nhân hết.
Qua trình báo của bị hại, Công an thị trấn C, huyện C trích xuất hình ảnh của caméra tại Doanh nghiệp tư nhân Tiệm T7 và phát thông báo truy tìm. Vào lúc 14 giờ 15 phút ngày 25/10/2023 Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận C, thành phố Cần Thơ đang tuần tra thì phát hiện bị cáo Trần Ngọc D điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 60B6 - 601.xx có đặc điểm giống đối tượng cướp giật tài sản tại thị trấn C, huyện C, thành phố Cần Thơ nên mời về trụ sở công an làm việc, bị cáo thừa nhận cướp giật tài sản trên địa bàn huyện C và thực hiện 05 vụ khác trên địa bàn thành phố Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang và tỉnh Vĩnh Long.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận C tạm giữ và bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, thành phố Cần Thơ 01 điện thoại di động Iphone 14 Pro Max số IMEI 351109798385849 cùng sim số 07669868xx; 01 điện thoại di động SamSung Galaxy A33 5G màu hồng số IMEI (khe 1) 351494690052873, IMEI (khe 2) 353439740052876 cùng sim số 08295676xx; 01 áo khoác Jean màu xanh không nhãn hiệu; 01 nón bảo hiểm màu xám; 01 xe mô tô biển kiểm soát 60B6-601.xx, số khung RLHKC2603JY203843, số máy KC26E1249758.
Vào lúc 08 giờ 30 phút ngày 26/10/2023 Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội thuộc Cơ quan Cảnh sát điều Công an huyện C tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo tại phòng số 4 nhà T thuộc ấp H, xã H, huyện P, tỉnh Hậu Giang, qua khám xét không thu giữ đồ vật, tài sản gì.
Vào lúc 08 giờ 55 phút ngày 26/10/2023 Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Hồng T2 tại phòng số 15 nhà T thuộc ấp H, xã H, huyện P, tỉnh Hậu Giang. Tang vật thu giữ: 01 cái bóp màu nâu có chữ LEXUS bên trong có 01 căn cước công dân số 09509900782x tên Trần Ngọc D; 01 thẻ ATM ngân hàng S1 số thẻ 97040302386875xx tên Trần Ngọc D; 01 thẻ ATM ngân hàng S1 số thẻ 97040304773985xx tên Phạm Hồng T2 và tiền Việt Nam 174.000 đồng (thu giữ phía dưới gối trên nệm).
Ngoài ra, từ khoảng tháng 3/2023 đến tháng 9/2023 với thủ đoạn tương tự bị cáo đã cướp giật tài sản 05 vụ khác, tại các cửa hàng kinh doanh vàng trên địa bàn quận T, quận Ô, quận N của thành phố Cần Thơ và thị xã B, tỉnh Vĩnh Long; thành phố N, tỉnh Hậu Giang. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã thông báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra của các địa phương trên thụ lý xác minh và điều tra theo thẩm quyền.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 33/KL-HĐĐGTS ngày 26 tháng 10 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của huyện C kết luận: 01 chiếc lắc đũa 2161.8 x 520 bằng vàng, loại vàng 610, trọng lượng 2,162 lượng, có giá trị 77.832.000 đồng.
Bà Trần Kim L1 là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH S giao nộp 72.000.000 đồng; Bị cáo giao nộp 47.000.000 đồng; Phạm Hồng T2 giao nộp 11.500.000 đồng và 01 điện thoại di động Iphone Pro Max màu vàng số IMEI 355901940944218.
Bà Trương Kiều D1-Chủ Doanh nghiệp tư nhân Tiệm T7 giao nộp 01 bảng kê gia công 610-Bọng 630.
Đối với 01 điện thoại di động Iphone Pro Max màu vàng số IMEI 355901940944218 do Trần Ngọc D lấy tiền cướp giật tài sản tại quận T, quận Ô và quận N mua cho Phạm Hồng T2 nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã bàn giao điện thoại trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận T xử lý .
Đối với 03 đoạn video trích xuất tại cửa hàng kinh doanh vàng G đã lưu theo hồ sơ vụ án.
Chị Phạm Hồng T2 không biết tiền và điện thoại bị cáo Trần Ngọc D cho là do bị cáo cướp giật mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C không xử lý đối với T2.
Công ty TNHH S thu mua chiếc lắc do bị cáo bán, công ty không biết đây là tài sản do phạm tội mà có và Nguyễn Vũ T3 không xác định được cửa tiệm cầm đồ Anh Q có nhận cầm hay cho bị cáo chuộc điện thoại hay không, cũng như không biết số tiền bị cáo dùng chuộc điện thoại do phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C không xử lý đối với công ty và ông T3.
Bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường 78.832.000 đồng; Công ty TNHH S yêu cầu được nhận lại 72.000.000 đồng.
Quá trình điều tra xác minh không làm việc được với anh Trần Trung Trung Đ là chủ sở hữu xe mô tô biển kiểm soát 60B6 - 601.xx là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội.
Bản cáo trạng số 55/CT-VKSCĐ ngày 30 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ truy tố bị cáo Trần Ngọc D về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và đề nghị:
Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị áp dụng điềm c khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 03 năm 06 tháng tù đến 04 năm tù.
Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp nên đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để:
Công nhận việc cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C đã bàn giao 01 điện thoại di động Iphone 14 Pro Maxmàu vàng số IMEI 355901940944218 cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận T.
Đề nghị tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động Iphone 14 Pro Max so IMEI 351109798385849 của bị cáo Trần Ngọc D.
Đề nghị tiếp tục tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Winner biển kiểm soát 60B6 - 601.xx, số khung RLHKC2603JY203843, số máy KC26E1249758 để chuyển cho Co quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, tỉnh Đồng Nai tiếp tục điều tra, xử lý.
Đề nghị Tịch thu tiêu hủy: 02 sim điện thoại số 07669868xx và sim số 08295676xx; 01 áo khoác Jean màu xanh không nhãn hiệu; 01 nón bảo hiểm màu xám; 01 thẻ ATM ngân hàng S1 số thẻ 97040302386875xx tên Trần Ngọc D; 01 bóp da màu nâu có chữ LEXUS.
Đề nghị trả lại cho bị cáo 01 căn cước công dân số 09509900782x tên Trần Ngọc D. Trả lại cho chị Phạm Hồng T2 01 điện thoại di động S2 A33 5G màu hồng số IMEI (khe 1) 351494690052873, IMEI (khe 2) 353439740052876; tiền Việt Nam 174.000 đồng và 01 thẻ ATM ngân hàng SI số thẻ 97040304773985xx tên Phạm Hồng T2. Trả lại cho bà Trần Thị L3 số tiền 72.000.000 đồng.
Đề nghị lưu vào hồ sơ vụ án: 03 đoạn video trích xuất tại cửa hàng K và 01 bảng kê gia công 610-Bọng 630.
Về trách nhiệm dân sự: Công nhận việc bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại số tiền 77.832.000 đồng. Bị cáo và gia đình bị cáo đã giao nộp tổng cộng 62.500.000 đồng để bồi thường cho bị hại, buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho bị hại số tiền 15.332.000 đồng.
Người bào chữa cho bị cáo D thống nhất tội danh, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng theo luận tội của kiểm sát viên. Tuy nhiên luật sư đề nghị áp dụng thêm điểm x và điểm t khoản 1 Điều 51 (hoặc đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 52 Bộ luật Hình sự về việc bị cáo đầu thú, tích cực giúp cho cơ quan điều tra) và Điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo hưởng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với bị cáo. Đối với vật chứng là 01 điện thoại di động Iphone 14 Pro Max của bị cáo thì đề nghị chuyển giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N, tỉnh Hậu Giang để xử lý theo thẩm quyền.
Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị hại thống nhất yêu cầu bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 77.832.000 đồng và yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã ăn năn, hối cải, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, thành phố Cần Thơ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại, những người tham gia tố tụng khác không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Qua đối chiếu quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nhận thấy, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về trách nhiệm hình sự: Bị cáo thống nhất đã thực hiện hành vi như cáo trạng truy tố và khai nhận: Vào khoảng 8 giờ 00 phút ngày 23/10/2023 bị cáo điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 60B6 - 601.xx đi đến địa bàn huyện C, TP Cần Thơ để tìm các cửa hàng kinh doanh vàng vắng người nhằm thực hiện hành vi cướp giật tài sản. Đến khoảng 12 giờ 00 phút cùng ngày, bị cáo điều khiển xe mô tô chạy vòng quanh khu vực chợ C, huyện C thì phát hiện Doanh nghiệp tư nhân T5 vàng G vắng người nên điều khiển xe chạy qua lại tiệm 02 vòng để quan sát và dừng xe lại dưới lộ, để sẵn chìa khóa trên xe, quay đầu xe hướng ra lộ đề dễ tẩu thoát. Bị cáo đi vào bên trong cửa hàng để giả vờ hỏi mua vàng thì gặp ông Đỗ Gia T1 nên bị cáo hỏi mua 01 chiếc lắc nam bằng vàng và yêu cầu ông T1 lấy chiếc lắc trong tủ kính loại lắc đũa dây lật, dạng dẹp, được thiết kế nhiều khoen vàng nhỏ tạo thành sợi giống như sợi dây xích, loại vàng 610, trọng lượng 2,162 lượng. Bị cáo đeo chiếc lắc vào tay trái rồi tiếp tục yêu cầu ông T1 lấy 01 chiếc lắc khác cho xem và yêu cầu ông T1 cân thử trọng lượng chiếc lắc này và tính tiền. Lợi dụng lúc ông T1 đang quay lưng tính tiền khi bị cáo còn đang đeo chiếc lắc trên tay trái thì bị cáo nhanh chóng chạy ra xe, nổ máy điều khiển xe bỏ chạy để chiếm đoạt tài sản và tẩu thoát. Sau đó bị cáo đem chiếc lắc đến Công ty TNHH S, địa điểm số A Hồ T, khu V, phường C, quận N, TP Cần Thơ bán được 72.000.000 đồng rồi bị cáo đến cửa hàng điện thoại di động Anh Q chuộc 01 điện thoại di động Iphone 14 Pro Max với số tiền 11.000.000 đồng; bị cáo chuyển vào tài khoản ngân hàng của Phạm Hồng T2 11.500.000 đồng và chuyển vào tài khoản ngân hàng của bị cáo 46.000.000 đồng, còn lại 3.500.000 đồng thì tiêu xài cá nhân hết.
Ngoài ra, từ khoảng tháng 3/2023 đến tháng 9/2023 với thủ đoạn tương tự bị cáo khai nhận đã cướp giật tài sản 05 vụ, tại các cửa hàng kinh doanh vàng trên địa bàn quận T, quận Ô, quận N của thành phố Cần Thơ và thị xã B, tỉnh Vĩnh Long; thành phố N, tỉnh Hậu Giang. Cơ quan Cảnh sát điều tra của các địa phương trên đều đã thụ lý xác minh và điều tra theo thẩm quyền đối với hành vi của bị cáo.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và những chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa. Xét thấy bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, hoàn toàn nhận thức được việc chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội thông qua việc lợi dụng sơ hở của bị hại để nhanh chóng cướp giật tài sản và nhanh chóng tẩu thoát, tài sản bị cáo cướp giật theo định giá có giá trị là 77.832.000 đồng. Hành vi phạm tội của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội cướp giật tài sản, tội phạm và hình phạt quy định tại điềm c khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tình tiết giảm nhẹ, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại; người đại diện hợp pháp của bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo có cha là thương binh, gia đình được khen tặng danh hiệu gia đình thương binh, có mẹ là nhà giáo nhân dân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp giáo dục, được tặng kỷ niệm chương vì sự nghiệp giáo dục và huy hiệu 30 năm tuổi đảng. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự theo đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ.
[4] Về hình phạt: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo từ mức án từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù. Xét thấy, bị cáo là thanh niên còn trẻ, lẽ ra bị cáo phải lao động chân chính để tạo ra của cải vật chất nuôi sống bản thân nhưng lại không chí thú làm ăn, muốn nhanh chóng có tiền tiêu xài cá nhân mà không phải lao động cực nhọc nên bị cáo bất chấp pháp luật mà cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo táo bạo, manh động, nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội, gây hoang mang cho quần chúng nhân dân. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đề răn đe, giáo dục, giúp bị cáo nhận thức sai lầm mà sửa đổi bản thân, nên đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ.
[5] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, Điều 585, Điều 586; Điều 589 Bộ luật Dân sự. Công nhận việc bị cáo đồng ý tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền 77.832.000 đồng. Bị cáo và gia đình đã nộp tổng cộng là 62.500.000 đồng đề bồi thường thiệt hại cho bị hại. Buộc bị cáo tiếp tục bồi thường số tiền còn lại cho bị hại là 15.332.000 đồng. Bị hại được quyền liên hệ Chi cục thi hành án dân sự huyện Cờ Đỏ đề nhận số tiền đã bồi thường.
[7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Việc cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C đã bàn giao 01 điện thoại di động Iphone 14 Pro Max số IMEI 355901940944218 cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận T là phù hợp nên công nhận.
Đối với 01 điện thoại di động Iphone 14 Pro Max số IMEI 351109798385849 của bị cáo, do đây là tài sản có được do phạm tội mà có nên cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Winner biển kiểm soát 60B6 - 601.xx, số khung RLHKC2603JY203843, số máy KC26E1249758 là phương tiện bị cáo sử dụng để đi cướp giật tài sản, tại phiên toà anh T6 xác định đây là xe của anh bị mất trộm và đã trình báo công an thành phố B, tỉnh Đồng Nai nên cần tiếp tục tạm giữ để chuyền cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, tỉnh Đồng Nai tiếp tục điều tra, xử lý.
Đối với 02 sim điện thoại số 07669868xx và sim số 08295676xx; 01 bóp da màu nâu có chữ LEXUS là tài sản không có giá trị, bị cáo không yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 áo khoác Jean màu xanh không nhãn hiệu; 01 nón bảo hiểm màu xám; 01 thẻ ATM ngân hàng S1 số thẻ 97040302386875xx tên Trần Ngọc D là tài sản có liên quan việc phạm tội, không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 căn cước công dân số 09509900782x tên Trần Ngọc D, không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.
Đối với 01 điện thoại di động S2 A33 5 G màu hồng số IMEI (khe 1) 351494690052873, IMEI (khe 2) 353439740052876; tiền Việt Nam 174.000 đồng và 01 thẻ ATM ngân hàng S1 số thẻ 97040304773985xx tên Phạm Hồng T2, đây là các tài sản không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho chị Phạm Hồng T2.
Đối với số tiền 72.000.000 đồng bà Trần Thị L3 giao nộp là tiền của Công ty TNHH S nên cần trả lại cho Công ty TNHH S.
Đối với 03 đoạn video trích xuất tại cửa hàng K và 01 bảng kê gia công 610 - Bọng 630 cần lưu vào hồ sơ vụ án.
[8] Đối với chị Phạm Hồng T2 không biết tiền và điện thoại bị cáo cho là do bị cáo cướp giật mà có; Công ty TNHH S thu mua chiếc lắc do bị cáo bán, công ty không biết đây là tài sản do phạm tội mà có và ông Nguyễn Vũ T3 không xác định được cửa tiệm cầm đồ Anh Q có nhận cầm hay cho bị cáo chuộc điện thoại hay không, cũng như không biết số tiền bị cáo dùng chuộc điện thoại do phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C không xử lý đối với chị T2, công ty và ông T3 là phù hợp.
[9] Đối với hành vi phạm tội của bị cáo trong 05 vụ cướp giật tài sản tại các cửa hàng kinh doanh vàng trên địa bàn quận T, quận Ô, quận N của thành phố Cần Thơ; thị xã B, tỉnh Vĩnh Long và thành phố N, tỉnh Hậu Giang từ khoảng tháng 3/2023 đến tháng 9/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã thông báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra của các địa phương trên thụ lý xác minh và điều tra theo thẩm quyền là phù hợp.
[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 767.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Ngọc D phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Áp dụng: điểm c khoản 2 Điều 171; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Ngọc D 03 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/10/2023.
2. Về hình phạt bổ sung: Không.
3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, Điều 585, Điều 586; Điều 589 Bộ luật Dân sự. Công nhận việc bị cáo đồng ý tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền 77.832.000 đồng. Bị hại được quyền liên hệ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cờ Đỏ để nhận số tiền đã bồi thường tổng cộng là 62.500.000 đồng theo biên lai thu số 0003060 ngày 13/12/2023 và biên lai thu số 0003065 ngày 20/12/2023, buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường số tiền còn lại cho bị hại là 15.332.000 đồng.
4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Công nhận việc cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã bàn giao 01 điện thoại di động Iphone 14 Pro Max số IMEI 355901940944218 cho Cảnh sát điều tra Công an quận T.
Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động Iphone 14 Pro Max số IMEI 351109798385849 của bị cáo Trần Ngọc D.
Tiếp tục tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Winner biển kiểm soát 60B6 - 601.xx, số khung RLHKC2603JY203843, so máy KC26E1249758 để chuyển cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, tỉnh Đồng Nai tiếp tục điều tra, xử lý.
Tịch thu tiêu hủy: 02 sim điện thoại số 07669868xx và sim số 08295676xx; 01 áo khoác Jean màu xanh không nhãn hiệu; 01 nón bảo hiểm màu xám; 01 thẻ ATM ngân hàng S1 số thẻ 97040302386875xx tên Trần Ngọc D; 01 bóp (ví) da màu nâu có chữ LEXUS.
Trả lại cho bị cáo 01 căn cước công dân số 09509900782x tên Trần Ngọc D. Trả lại cho chị Phạm Hồng T2 01 điện thoại di động S2 A3 3 5 G màu hồng số IMEI (khe 1) 351494690052873, IMEI (khe 2) 353439740052876; tiền Việt Nam 174.000 đồng và 01 thẻ ATM ngân hàng S1 số thẻ 97040304773985xx tên Phạm Hồng T2. Trả lại cho Công ty TNHH S số tiền 72.000.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0003060 ngày 13/12/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ.
Lưu vào hồ sơ vụ án: 03 đoạn video trích xuất tại cửa hàng K và 01 bảng kê gia công 610 - Bọng 630.
5. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng điểm a, g khoản 1 Điều 23, khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 767.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kề từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt, được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết tại Ủy ban nhân dân nơi cư trú hoặc được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 56/2023/HS-ST
Số hiệu: | 56/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cờ Đỏ - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về