TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ M
BẢN ÁN 55/2022/HS-ST NGÀY 23/08/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Trong ngày 23 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí M xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 48/2022/TLST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2022/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:
Trần Phong M; sinh năm: 1989 tại Thành phố Hồ Chí M; nơi thường trú: đường H, Phường I, Quận D, Thành phố Hồ Chí M; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Phong T (chết) và bà: Nguyễn Thị M; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 28/6/2006 bị Tòa án nhân dân Quận 10 xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 79/2006/HSST, ngày 23/6/2011 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 10 quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh với thời hạn 24 tháng về hành vi “Sử dụng chất ma túy” tại Quyết định số 6150/QĐ-UBND, ngày 24/9/2014 bị Công an Quận 10 xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” tại Quyết định số 9117/QĐ-XPVPHC, ngày 29/10/2014 bị Công an Phường 8 Quận 10 xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” tại Quyết định số 11751/QĐ-XPVPHC, ngày 10/02/2015 bị Tòa án nhân dân Quận 10 quyết định xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 21 tháng tại Quyết định số 39/QĐ-TA, ngày 10/3/2017 bị Tòa án nhân dân Quận 10 quyết định xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 22 tháng tại Quyết định số 38/QĐ-CSCNBB-TA (tất cả đã xóa án tích, xóa tiền sự); bị bắt giữ ngày: 01/4/2022.
(Bị cáo có mặt).
- Bị hại:
Ông Lương Minh T – Sinh năm: 1974 (vắng mặt).
Địa chỉ: đường H, thị trấn N, huyện N, Thành phố Hồ Chí M.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 08 giờ 19 phút ngày 01/4/2022, Trần Phong M nhìn thấy ông Lương Minh T đang đứng trước nhà số 47/9 đường Hồ Thị Kỷ, Phường 1, Quận 10 và trên tay cầm một tập vé số để bán, nên nảy sinh ý định chiếm đoạt; M đi bộ đến chỗ ông T giả vờ hỏi mua 20 tờ vé số, ông T đưa cho M một cọc vé số của Công ty xổ số kiến thiết tỉnh Bình Dương mở thưởng ngày 01/4/2022 mệnh giá 10.000 đồng/tờ; M lấy 20 tờ rồi trả cọc vé số còn lại cho ông T; M cầm 20 tờ vé số vừa lấy trên tay trái, không trả tiền mà bỏ chạy về hướng đường Trần Bình Trọng, vừa chạy vừa đút vào túi quần Jeans bên phải (hành vi đã được camera ghi hình lại); ông T tri hô và chạy bộ đuổi theo M nhưng không kịp, nên đến Công an Phường 1, Quận 10 trình báo vụ việc, Công an Phường 1, Quận 10 lập hồ sơ ban đầu; sau đó chuyển đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ. Qua truy xét, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã xác định và tiến hành bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Trần Phong M.
Tài sản bị chiếm đoạt: 20 tờ vé số của Công ty xổ số kiến thiết tỉnh Bình Dương mở thưởng ngày 01/4/2022 mệnh giá 10.000 đồng/tờ, tổng trị giá 200.000 đồng; không thu hồi lại được do M đã bán cho một số người (không rõ lai lịch) được 180.000 đồng và tiêu xài cá nhân hết số tiền trên.
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết định khởi tố điều tra đối với Trần Phong M về hành vi “Cướp giật tài sản”.
Quá trình điều tra, M khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên.
Vật chứng vụ án:
Đối với: 01 chiếc quần Jeans lửng màu xanh, 01 áo sơ mi dài tay màu nâu đen có nhiều họa tiết hoa văn; là quần áo mà M đã mặc khi thực hiện hành vi phạm tội, Công an Quận 10 đã tạm giữ lại.
Riêng đối với USB có nội dung ghi hình về hành vi tội phạm đã được vào lưu hồ sơ vụ án.
Về trách nhiệm dân sự: Ông Lương Minh T yêu cầu M bồi thường thiệt hại 200.000 đồng.
Tại Cáo trạng số 49/CT-VKSQ10 ngày 07 tháng 7 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 Thành Phố Hồ Chí M đã truy tố:
Trần Phong M về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa hôm nay:
- Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí M công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, bị hại sau khi nêu lên những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (thành khẩn khai báo) của bị cáo; đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo, xử phạt bị cáo: Trần Phong M từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định của pháp luật.
- Ý kiến của bị cáo: Không có ý kiến tranh luận gì.
- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí M, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:
Tại Cơ quan điều tra, cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình, qua lời khai nhận của bị cáo, đối chiếu với lời khai của bị hại, nội dung ghi hình của camera, vật chứng, bản kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là phù hợp, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Trần Phong M thực hiện hành vi lợi dụng sự sơ hở của người khác mà nhanh chóng công khai chiếm đoạt tài sản trị giá 200.000 đồng của bị hại. Do vậy bị cáo bị truy tố và xét xử về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).
[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:
Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm M bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo.
Về tình tiết tăng nặng: Không có.
Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo (nhưng chưa thật sự ăn năn hối cải thể hiện qua quá trình nhân thân của bị cáo); do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.
Về hình phạt bổ sung: Do các lần bị kết án đối với bị cáo đã được xóa án tích, Hội đồng xét xử xem xét miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:
Về trách nhiệm dân sự:
Tài sản bị chiếm đoạt là 20 tờ vé số của Công ty xổ số kiến thiết tỉnh Bình Dương mở thưởng ngày 01/4/2022 mệnh giá 10.000 đồng/tờ, tổng trị giá 200.000 đồng và không thu hồi được, bị hại là ông Lương Minh T yêu cầu bị cáo bồi thường khoản tiền 200.000 đồng; xét yêu cầu của bị hại là phù hợp với quy định của pháp luật; vậy căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015, buộc bị cáo Trần Phong M bồi thường khoản tiền 200.000 đồng cho ông Lương Minh T.
Về xử lý vật chứng:
Đối với: 01 chiếc quần Jeans lửng màu xanh, 01 áo sơ mi dài tay màu nâu đen có nhiều họa tiết hoa văn; là quần áo mà Phong mặc khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, không đáng giá trị; vậy căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu và tiêu hủy.
Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Trần Phong M phạm tội “Cướp giật tài sản”.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Trần Phong M;
Xử phạt bị cáo Trần Phong M 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/4/2022.
Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo M.
- Căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) và Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015; buộc: Bị cáo Trần Phong M bồi thường số tiền 200.000 (hai trăm ngàn) đồng cho ông Lương Minh T.
Thi hành ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật tại cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.
Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu và tiêu hủy: 01 chiếc quần Jeans lửng màu xanh, 01 áo sơ mi dài tay màu nâu đen có nhiều họa tiết hoa văn.
(Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 08/7/2022 giữa Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí M và Chi cục Thi hành dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí M).
- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc: Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án.
Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo tính từ ngày tuyên án; đối với bị hại tính từ ngày được giao hoặc ngày niêm yết bản án./.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 55/2022/HS-ST
Số hiệu: | 55/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về