Bản án về tội cướp giật tài sản số 50/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 5, THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 50/2023/HS-ST NGÀY 22/06/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 22 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 26/2023/HSST ngày 11/4/2023, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2023/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Minh C, sinh ngày 20 tháng 8 năm 1984 tại: Long An; giới tính: Nam; Thường trú: Không nơi đăng ký hộ khẩu thường trú; Chỗ ở: Ấp G, xã L, huyện B, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Làm công; Học vấn: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn H (đã chết) và bà: Nguyễn Thị L (đã chết); Có vợ tên Trần Thị Cẩm T, chưa có con; Tiền án: Ngày 31/01/2013 bị Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/9/2022 (có mặt tại phiên tòa).

2. Phan Vạn L1, sinh ngày 21 tháng 7 năm 1995 tại: Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; Thường trú: 270/18/12 H, Phường D, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Không nơi ở nhất định; Nghề nghiệp: Làm công; Học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Họ và tên cha: Không rõ, mẹ tên Phan Thị T1 ; Chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 28/02/2012 bị Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 (hai) năm về tội “Cướp giật tài sản”; Ngày 21/8/2013 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 (bốn) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của 02 bản án là 06 (sáu) năm tù.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/9/2022 (có mặt tại phiên tòa).

Bị hại:

- Bà Trần Thanh T2, Sinh năm: 1995 (vắng mặt) Địa chỉ: F C, Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Minh C, Phan Vạn L1 và Hàng Tuấn Đ là bạn bè quen biết với nhau từ trước. Do cần tiền tiêu xài nên Nguyễn Minh C rủ Phan Vạn L1 và Hàng T3 Đ đi cướp giật tài sản, bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trước khi đi Cướp giật tài sản, Đ phân công nhiệm vụ như sau, L1 sẽ điều khiển xe gắn máy Wave biển số 93K1 - 075.xx chở C ngồi sau tìm người có tài sản sơ hở để cướp giật tài sản còn Đ điều khiển xe gắn máy, hiệu Vario, màu đỏ chạy theo sau “cản địa” khi bị hại hoặc lực lượng chức năng truy đuổi.

Vào khoảng 00 giờ ngày 11/3/2019, sau khi chạy lòng vòng nhiều lần trên địa bàn Quận A và Quận E, khi đến trước nhà số D T, Phường A, Quận E thì Đ phát hiện anh Nguyễn Minh Q điều khiển xe gắn máy biển số 59L1-581.xx chở bạn là chị Trần Thanh T2 đang dừng đèn đỏ và đeo giỏ xách (bên trong có 01 điện thoại hiệu Iphone 8Plus, 64Gb, màu bạc) nên ra hiệu cho L1 điều khiển xe gắn máy hiệu Wave, biển số 93K1 - 075.xx áp sát từ bên phải để c dùng tay trái giật túi xách rồi L1 tăng ga bỏ chạy, anh Q điều khiển xe đuổi theo truy hô thì bị Đ điều khiển xe gắn máy hiệu Vario màu đỏ chạy phía trước ngăn cản. Khi đến đường N (Quận A), do không theo kịp nên anh Q và chị T2 dừng lại. C, L1 và Đ sau khi chạy thoát đã về nhà người quen tại số A Bà H, Phường I, Quận A để kiểm tra tài sản, sau khi mở túi xách thì phát hiện 01 điện thoại Iphone 8 Plus, màu bạc.

Sau khi không đuổi theo kịp đối tượng cướp giật, anh Q và chị T2 dừng lại trên đường N 10 để kiểm tra định vị trên điện thoại vừa bị Cướp giật thì phát hiện vị trí ở trong hẻm A Bà H, Phường I, Quận A nên đã trình báo công an P, Quận A hỗ trợ kiểm tra hành chính. Khi lực lượng Công an P kiểm tra hành chính đối với căn nhà số A B H, Phường I, Quận A thì C, L1 và Đ bỏ chạy, bị Công an Phường truy đuổi nên c ném túi xách vừa cướp giật lên nóc nhà trên đường (không xác định được vị trí, chưa thu hồi được tang vật) L1 cầm ĐTDĐ Iphone 8 Plus (tang vật vụ án) chạy thoát, còn Đ bị lực lượng Công an bắt giữ cùng 02 (hai) xe gắn máy là phương tiện cướp giật, giao về Công an P1 Quận E, tiếp tục đấu tranh làm rõ.

Tại cơ quan điều tra, Hàng Tuấn Đ thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên và khai ra đồng bọn cùng tham gia là Phan Vạn L1 và Nguyễn Minh C. Do chưa đủ cơ sở xử lý, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q1 đã đề xuất đưa Hàng T3 Đạt vào cơ sở xã hội Nhị Xuân do Đ dương tính với ma túy và không có nơi ở nhất định.

Ngày 26/6/2019, Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q1 truy tìm được Phan Vạn L1 và đưa về cơ quan làm việc. Quá trình đấu tranh, L1 khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên; do chưa bắt được Nguyễn Minh C (đối tượng trực tiếp giật tài sản), không thu hồi được tang vật, bị hại và nhân chứng không nhận dạng được Phan Vạn L1, do đó chưa đủ cơ sở xử lý nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q1 cho gia đình bảo lãnh.

Ngày 28/9/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q1 đã truy tìm được Nguyễn Minh C. Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Minh C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên và cho biết đã giao điện thoại cướp giật được cho người chị tên T4 (chưa rõ thông tin, lai lịch) để giao nộp lại cho Cơ quan Công an. Quá trình xác minh, không có căn cứ thể hiện việc bị hại nhận lại tài sản bị cướp giật hoặc giao nộp tại Cơ quan Công an.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q1 đã tiến hành triệu tập Phan Vạn L1 và Hàng Tuấn Đ đến làm việc nhưng chỉ có Phan Vạn L1 chấp hành, riêng Hàng T3 Đ không có mặt tại địa phương nên chưa làm việc được.

Ngày 29/9/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q1 đã ra quyết định phục hồi điều tra vụ án hình sự đối với vụ án “Cướp giật tài sản” nêu trên, đồng thời tiến hành thực nghiệm điều tra làm rõ hành vi phạm tội của các đối tượng.

Tại Cơ quan điều tra, các bị can Phan Vạn L1 và Nguyễn Minh C thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên. Tiến hành cho Phan Vạn L1 và Nguyễn Minh C nhận dạng Hàng Tuấn Đ là đồng phạm cùng tham gia trong vụ Cướp giật tài sản nêu trên, quá trình thực nghiệm điều tra, Phan Vạn L1 và Nguyễn Minh C đã diễn lại toàn bộ hành vi cướp giật tài sản, phù hợp với tài liệu, chứng cứ thu thập được.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Q1 đã ra Quyết định tách vụ án và ra Quyết định truy nã đối với Hàng Tuấn Đ.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 65/KL-HĐĐG ngày 13/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong Tố tụng hình sự có kết quả định giá như sau:

Điện thoại di động hiệu iPhone 8 Plus 64 GB màu bạc, đã qua sử dụng, tỷ lệ mới 90%, giá 11.000.000 đồng/chiếc.

Đối với tài sản là giỏ xách màu đỏ. Do không có thông tin về nhãn hiệu, kích thước, chất liệu nên hội đồng định giá tài sản không có cơ sở tiến hành định giá.

Vật chứng: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus, 64GB, màu bạc; 01 xe gắn máy, hiệu Wave, biển số 93K1 - 075.xx; 01 xe gắn máy, hiệu Vario, không có biển số. Đ1 và Phòng PC09, kết luận: xe gắn máy trên không có trong cơ sở dữ liệu phương tiện giao thông, cơ giới đường bộ; có số khung: MH1JM5114JK073286 và số máy: JM51E1073395 nguyên thủy.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là bà Trần Thanh T2 yêu cầu các bị cáo trả lại tài sản đã chiếm đoạt là điện thoại iPhone 8 Plus.

Bản cáo trạng số: 33/CTr-VKS-Q5 ngày 10/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh C về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), truy tố bị cáo Phan Vạn L1 về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 5 giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Vào khoảng 00 giờ 15 phút ngày 11/3/2019 tại trước D T, phường A, quận E, Phan Vạn L1 điều khiển xe gắn máy chở Nguyễn Minh C áp sát người chị Trần Thanh T2 để c ngồi phía sau dùng tay trái công khai cướp giật chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 8Plus màu bạc có trị giá 11.000.000 đồng của chị T2 rồi cả hai nhanh chóng tăng ga xe tẩu thoát, sau đó bị bắt giữ. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Minh C và Phan Vạn L1 về tội “Cướp giật tài sản”. Cả hai bị cáo sử dụng xe gắn máy làm phương tiện để thực hiện việc cướp giật gây nguy hiểm cho bị hại và người đi đường nên thuộc trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm. Riêng bị cáo Nguyễn Minh C đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng do cố ý chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d, i Khoản 2 Điều 171; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Minh C với mức án từ 04 (bốn) năm đến 05 (năm) năm tù; Áp dụng điểm d Khoản 2 Điều 171; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Phan Vạn L1 với mức án từ 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng đến 04 (bốn) năm tù; Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Minh C và Phan Vạn L1 không có ý kiến tranh luận, bào chữa và nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Q1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa công khai, các bị cáo Nguyễn Minh C và Phan Vạn L1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người bị hại, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Phan Vạn L1 điều khiển xe mô tô biển số số 93K1 - 075.xx chở Nguyễn Minh C ngồi phía sau chạy áp sát bên phải để C dùng tay trái giật túi xách (bên trong có 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus, 64GB, màu bạc trị giá 11.000.000 đồng của chị Trần Thanh T2) rồi cả hai nhanh chóng tăng ga xe bỏ chạy tẩu thoát và sau đó bị bắt giữ. Như vậy, hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Ngoài ra, bị cáo Nguyễn Minh C đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng do cố ý chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xét các bị cáo là người có năng lực hành vi, đủ khả năng nhận thức được việc làm của mình, nhưng vì tham lam muốn có tiền tiêu xài cá nhân mà các bị cáo bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Xét vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, các bị cáo rủ nhau thực hiện hành vi cướp giật tài sản. Bị cáo C là người rủ rê và trực tiếp giật tài sản còn bị cáo L1 là đồng phạm tích cực đã điều khiển xe máy áp sát người bị hại, tạo điều kiện thuận lợi để bị cáo c trực tiếp cướp giật tài sản.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần có một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo nhằm mục đích giáo dục các bị cáo, đồng thời có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

Đối với đối tượng Hàng Tuấn Đ hiện chưa bắt được nên Cơ quan điều tra ra Quyết định tách vụ án và ra Quyết định truy nã, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần xem xét cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về hình phạt áp dụng đối với các bị cáo: Căn cứ Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải buộc các bị cáo chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định đủ tác dụng giáo dục, để bị cáo có thể cải tạo thành người có ích cho xã hội, đồng thời đủ sức răn đe đối với những người khác có hành vi tương tự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Không xem xét áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Viện kiềm sát nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố để xét xử và đề nghị mức hình phạt đối với các bị cáo là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan sai nhưng còn thấp, chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm và nhân thân của từng bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus, 64GB, màu bạc hiện chưa thu hồi được nên Tòa không xét;

01 xe gắn máy, hiệu Wave, biển số 93K1 - 075.xx và 01 xe gắn máy, hiệu Vario, không có biển số. Xe có số khung: MH1JM5114JK073286 và số máy: JM51E1073395. Các vật chứng trên đã chuyển vào vụ án mà Cơ quan điều tra đã ra quyết định tách vụ án đối với Hàng T3 Đ nên Tòa không xét.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chưa nhận lại tài sản và có yêu cầu các bị cáo bồi thường giá trị chiếc điện thoại là 11.000.000đ. Tại phiên tòa, các bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại với số tiền là 11.000.000đ. Xét đây là sự tự nguyện thỏa thuận giữa các bị cáo và bị hại, phù hợp với quy định của pháp luật nên hội đồng xét xử ghi nhận.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm d, i Khoản 2 Điều 171; Điều 17, Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 53, Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh C 06 (sáu) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 30/9/2022.

Căn cứ điểm d Khoản 2 Điều 171; Điều 17, Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Phan Vạn L1 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 30/9/2022.

Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 357; Khoản 1 Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Nguyễn Minh C và Phan Vạn L1 liên đới bồi thường cho chị Trần Thanh T2 số tiền 11.000.000đ (mười một triệu đồng). Trong đó, mỗi bị cáo có nghĩa vụ bồi thường cho bị hại số tiền 5.500.000đ (năm triệu, năm trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và chị Trần Thanh T2 có đơn yêu cầu thi hành án mà các bị cáo không thanh toán khoản tiền bồi thường thiệt hại nêu trên, thì hàng tháng bị cáo còn phải chịu thêm khoản tiền lãi chậm trả theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 (được sửa, đổi bổ sung năm 2017) và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Luật phí và lệ phí.

Mỗi bị cáo chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (năm trăm năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 50/2023/HS-ST

Số hiệu:50/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 5 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về