Bản án về tội cướp giật tài sản số 49/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG – TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 49/2021/HS-ST NGÀY 17/03/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong các ngày 16, 17 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 11/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2021/HSST-QĐ ngày 23 tháng 02 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Tiến V - Sinh năm: 1997 tại Khánh Hòa.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ 07 H, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 10/12; quốc tịch Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Thành Ch (sinh năm 1957) và con bà Nguyễn Thị Đ (sinh năm 1957); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam từ ngày 23/9/2017 đến ngày 02/01/2018 được thay thể áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Nguyễn Thị Đ (Mẹ ruột của bị cáo)

Địa chỉ: Tổ 07 H, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tiến V: Ông Ngô Minh Th – Luật sư của Văn phòng Luật sư M và cộng sự, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

- Người bị hại: Bà Nguyễn Thị Xuân M – sinh năm 1965

Địa chỉ: Tổ 10 V, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 18/9/2017, Nguyễn Tiến V đi bộ trên đường T, thành phố N. Khi đi đến khu vực trước kho xi măng, số 17 đường T, phường V, thành phố N, V phát hiện 01 chiếc xe máy hiệu Grande, biển kiểm soát 79N2- X của chị Nguyễn Thị Xuân M đang dựng bên lề đường, trên xe còn cắm chìa khóa. Quan sát xung quanh thấy chị M đang ngồi quay lưng về hướng xe máy, V đi đến ngồi lên xe rồi khởi động máy xe định bỏ chạy. Lúc này, chị M nghe tiếng xe nổ nên quay người lại thấy vậy nên la lên “sao ngồi lên xe tôi vậy”, rồi dùng tay nắm giữ phần đuôi xe máy ghì lại nhưng V tăng tốc xe bỏ chạy, chị M buông tay và đứng tri hô. Sau đó, chị M đến công an phường V trình báo vụ việc. Sau khi có tài sản, V mang xe về nhà rồi tháo biển kiểm soát vứt bỏ, còn xe đem cất giấu chờ tìm nơi tiêu thụ.

Qua truy xét, ngày 21/9/2017, Cơ quan điều tra Công an thành phố Nha Trang đã đưa Nguyễn Tiến V về làm việc. Tại Cơ quan điều tra, V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 313/TCKH ngày 22/9/2017 của Phong Tài chính - Kế hoạch thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Nha Trang kết luận 01 xe máy Yamaha hiệu Nozza Grande, biển kiểm soát 79N2-X trị giá 36.860.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tâm thần số 151/KLGD ngày 06/10/2020 của Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nguyên – Bộ Y tế kết luận: Trước, trong, sau khi sự việc xảy ra (ngày 18/9/2017) và hiện tại (tại thời điểm giám định) Nguyễn Tiến V bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

Bản Cáo trạng số 22/CT-VKSNT, ngày 11/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Nha Trang đã truy tố bị cáo Nguyễn T Việt về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng khoản 1 Điều 171; điểm q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến V từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án, nhưng được trừ vào thời gian bị tạm giữ (từ ngày 23/9/2017 đến ngày 02/01/2018).

- Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về xử lý vật chứng: Đã xử lý tại cơ quan điều tra nên đề nghị không xem xét.

Bị cáo Nguyễn Tiến V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung truy tố của bản Cáo trạng. Tuy nhiên bị cáo cho rằng bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” chứ không phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Luật sư bào chữa cho bị cáo đồng ý với nội dung truy tố về hành vi cụ thể của bị cáo như nội dung bản cáo trạng. Tuy nhiên, vị luật sư cho rằng với hành vi như vậy chỉ cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” chứ không cấu thành tội “Cướp giật tài sản” như kết luận và quyết định truy tố của bản cáo trạng cũng như phần luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xác định bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173 và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án thấp hơn hoặc bằng 12 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố Nha Trang và Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đúng trình tự, thủ tục và đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy việc vắng mặt của người bị hại không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án, căn cứ các điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[3] Về trách nhiệm hình sự:

[3.1] Về xác định tội danh: Bị cáo V và vị luật sư bào chữa cho bị cáo đều trình bày: Do quan sát thấy một chiếc xe máy đang dựng bên lề đường, trên xe còn cắm chìa khóa, chị Nguyễn Thị Xuân M đang ngồi quay lưng về hướng xe máy, nên bị cáo lén lút tiếp cận xe máy và lấy trộm xe. Vì vậy bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” chứ không phạm tội “Cướp giật tài sản” như quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang và tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử xét thấy: Khi bị cáo nhìn thấy 01 xe máy hiệu Grande, biển kiểm soát 79N2-X của chị Nguyễn Thị Xuân M đang dựng bên lề đường, trên xe còn cắm chìa khóa, quan sát thấy chị M đang ngồi quay lưng về phía xe máy thì bị cáo Nguyễn Tiến V đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe này, V đã lén lút đến ngồi lên xe, định nổ máy chạy đi thì bị chị M phát hiện, la lên và dùng hai tay níu giữ phần đuôi xe ghì lại, cố giữ lại tài sản của mình. Tuy nhiên, bị cáo đã cố ý thực hiện đến cùng việc chiếm đoạt tài sản bằng hành vi tiếp tục nổ máy, và tăng ga bỏ chạy. Hành vi này của bị cáo thể hiện việc chiếm đoạt tài sản của người khác một cách công khai và nhanh chóng. Như vậy, đã có sự chuyển hóa hành vi từ “Trộm cắp tài sản” sang hành vi “Cướp giật tài sản”. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 18/9/2017, tài sản bị cáo chiếm đoạt có trị giá 36.860.000 đồng, nên có đủ căn cứ xác định bị cáo Nguyễn Tiến V phạm tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự 1999. Tuy nhiên, đối chiếu quy định của Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999 và Điều 171 Bộ luật hình sự 2015 thì không có thay đổi gì gây bất lợi cho bị cáo. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang truy tố bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự 2015 là phù hợp và có căn cứ.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Vì vậy phải xử phạt bị cáo mức hình phạt thật nghiêm khắc, tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, cải tạo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bản thân bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi, nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, q khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên hồ sơ vụ án thể hiệnngười bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng vụ án: Đã xử lý tại giai đoạn điều tra, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng khoản 1 Điều 171; điểm s, q khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến V 01 (một) năm tù, về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành hình phạt tù, nhưng được trừ vào thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam (từ ngày 23/9/2017 đến ngày 02/01/2018).

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí và lệ phí tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Tiến V phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo và người bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 49/2021/HS-ST

Số hiệu:49/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về