TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 46/2023/HS-ST NGÀY 13/12/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 13/12/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 66/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2023/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 11 năm 2023, đối với bị cáo:
Đoàn Xuân T - Sinh ngày 2000 tại T; Hộ khẩu thường trú: thôn Mỹ Đức, xã Đông Hoàng, huyện Tiền Hải, tỉnh T; Nơi ở: Thôn K, xã Đ, huyện Y, tỉnh T; nghề nghiệp: LĐTD; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đoàn Văn Y và bà: Lê Thị L; vợ: Lê Thị Như B và có 01 con sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ từ ngày 13/9/2023 đến ngày 16/9/2023 chuyển tạm giam; Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố T, tỉnh T, có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Chị chị Lê Thị Lan A - Sinh năm 1997(vắng) Trú tại: SN SH, phường Đ, thành phố T, tỉnh T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chiều ngày 12/9/2023, Đoàn Xuân T điều khiển xe máy Dream, biển kiểm soát 31- xxxxx đi từ huyện Yên Định xuống thành phố T, mục đích để xin việc làm. Đến khoảng 17 giờ 20 phút cùng ngày, khi đang đi trên đường Đại lộ Lê Lợi thuộc phường Đông Hương, thành phố T, tỉnh T, Th nhìn thấy chị Lê Thị Lan A điều khiển xe máy Vison màu trắng đi phía trước cùng chiều, tay trái cầm điện thoại Iphone 12 Pro max, nên đã nảy sinh ý định cướp giật điện thoại, bán lấy tiền. Th điều khiển xe, tăng ga vượt lên bên trái của chị Lan A, dùng tay phải (thả ga) giật điện thoại, rồi chuyển điện thoại sang tay trái cầm và tăng ga bỏ chạy. Bị giật điện thoại bất ngờ, chị Lan A vừa la “Cướp, Cướp” vừa tăng ga đuổi theo Th. Do hoảng sợ và không thông thạo đường nên Th đã rẽ vào ngõ 229 Nguyễn Tĩnh, phường Đông Hương, Tp T (đường cụt) nên chị Lan Anh đã đuổi kịp và giữ Th lại. Lan A lấy điện thoại gọi cho chồng là anh Nguyễn Trọng T, sinh năm 1995 đến và đưa Th đến Công an phường Đông Hương, thành phố T để giao nhận và trình báo sự việc. Công an phường Đông Hương, thành phố T đã lập biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và chuyển cho Cơ quan điều tra Công an thành phố T.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 107/KL-HĐĐGTS ngày 13/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản, Ủy ban nhân dân thành phố T, kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh đã qua sử dụng, giá trị là 12.200.000 đồng.
Về thu giữ và xử lý vật chứng:
- Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 promax, đã qua sử dụng, là tài sản của chị Lê Thị Lan Anh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thanh Hoá đã ra Quyết định xử lý tài sản, đồ vật bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.
- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu tím, biển kiểm soát 31- xxxxx, số khung C100M0167509; số máy C100ME0167509, xe đã qua sử dụng là phương tiện Đoàn Xuân Th sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, đang tạm giữ tại kho vật chứng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T được chuyển đến kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T để chờ xử lý theo quy định của pháp luật.
Về bồi thường dân sự: người bị hại là chị Lê Thị Lan A đã nhận lại tài sản của mình và không có yêu cầu đề nghị gì về phần dân sự.
Tại bản cáo trạng số: 02/CT - VKSTPTH ngày 16/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh Hoá đã truy Đoàn Xuân Th về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 BLHS.
Tại phiên tòa đại diện VKS vẫn giữ nguyên quyết định truy tố; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS. Mức hình phạt VKS đề nghị đối với bị cáo từ 42 - 48 tháng tù. Ngoài ra VKS còn đề nghị xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không tranh luận gì với đại diện VKS.
Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo, bị hại không có ý kiến khiếu nại gì.
[2] Về hành vi phạm tội:
Khoảng 17 giờ 20 phút ngày 12/9/2023, tại khu vực đường Đại lộ Lê Lợi (đoạn đối diện tòa nhà chung cư Louis Apartment) thuộc phường Đông Hương, thành phố T, tỉnh T, Đoàn Xuân T đi xe máy áp sát và dùng tay phải giật chiếc điện thoại di dộng Iphone 12 Pro max của chị Lê Thị Lan A trị giá là 12.200.000 đồng rồi nhanh chóng tẩu thoát thì bị bắt.
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa, thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của Đoàn Xuân T có đủ các dấu hiệu cấu thành tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự như cáo trạng truy tỗ của VKS là đúng.
[3] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Đoàn Xuân T điều khiển xe máy đi trên đường phố, chọn địa điểm là đường một chiều để tiếp cận bị hại và lợi dụng khi bị hại sơ hở trong việc quản lý tài sản, bị cáo áp sát, bất ngờ giật tài sản một cách nhanh chóng làm cho bị hại không có khả năng giữ được tài sản mình đang quản lý để chiếm đoạt tài sản. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, ảnh hưởng đến tính mạng sức khỏe, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, làm mất trật tự trị an chung, cần phải xử lý nghiêm minh.
Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Mặc dù bị cáo có nhân thân tốt, nhưng hành vi phạm tội thể hiện sự liều lĩnh, táo bạo, do đó khi quyết định hình phạt cần áp dụng Điều 38 BLHS để cách ly bị cáo khỏi cộng đồng xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và có tính chất phòng ngừa chung.
[4] Về Phần dân sự: Theo báo cáo của bị hại, tài sản bị cáo chiếm đoạt đã nhận lại đầy đủ và không yêu cầu gì. Do đó cần công nhận phần dân sự giữa bị cáo và bị hại đã giải quyết xong.
[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu tím, biển kiểm soát 31- xxxxx, số khung C100M0167509; số máy C100ME0167509, xe đã qua sử dụng là phương tiện Đoàn Xuân T sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, cần áp dụng khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS để tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
[5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí HSST theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Xuân T tội: “Cướp giật tài sản”.
Xử phạt: Đoàn Xuân T 42 (bốn hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/9/2023.
Về dân sự: Công nhận phần dân sự giữa bị cáo, bị hại đã giải quyết xong.
Về vật chứng: Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) xe máy nhãn hiệu Honda Dream, màu sơn tím, xe gắn biển kiểm soát: 31- xxxxx, qua kiểm tra xe có số khung C100M0167509; số máy C100ME0167509, xe không có gương chiếu hậu (xe củ gỉ nhiều, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng máy móc bên trong). Theo thông báo tra cứu dữ liệu xe mô tô của Đội cảnh sát giao thông trật tự của Công an thành phố T: không có thông tin về chủ sở hữu chiếc xe có đặc điểm nêu trên.
Hiện số vật chứng trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, theo biên bản giao nhận vật chứng số: 34/THA ngày 17/11/2023 giữa Công an thành phố T với Chi cục thi hành án dân sự thành phố T.
Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 46/2023/HS-ST
Số hiệu: | 46/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về