TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO THẮNG, TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 42/2024/HS-ST NGÀY 18/09/2024 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 18 tháng 9 năm 2024, tại nhà văn hóa tổ dân phố P, thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai xét công khai sơ thẩm lưu động vụ án hình sự thụ lý số 37/2024/TLST - HS ngày 29/8/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2024/QĐXXST - HS ngày 04/9/2024 đối với bị cáo:
Nguyễn Đình T (Tên gọi khác: Không) Giới tính: Nam; Sinh ngày : 01/6/1996 tại huyện B, tỉnh Lào Cai.
Nơi cư trú: Thôn N, xã S, huyện B, tỉnh Lào Cai.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông: Nguyễn Đình T1 và bà: Trần Thị Kim T2. Đều trú tại: Thôn N, xã S, huyện B, tỉnh Lào Cai. Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án: Bị cáo có 02 tiền án. Năm 2018 bị Tòa án nhân dân huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai (Nay là Thị xã S, tỉnh Lào Cai) xử phạt Nguyễn Đình T 09 (Chín) tháng tù về tội " Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" và áp dụng Khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt 01 (một) năm 07 (Bảy) tháng tù theo bản án hình sự số 38/2018/HSST ngày 05/9/2018. Buộc bị cáo Nguyễn Đình T phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 02 (Hai) năm 04 (Bốn) tháng tù và Buộc Nguyễn Đình T phải bồi thường cho chị Đặng Thị Thủy L số tiền là 16.250.000đ, bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm và 812.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm theo bản án số 28/2018/HS - ST ngày 13/11/2018. Đến ngày 01/9/2019 Nguyễn Đình T thi hành xong khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm. Ngày 04/9/2020 Nguyễn Đình T chấp hành xong hình phạt tù. Đối với khoản tiền 16.250.000đ đến nay chị Đặng Thủy L chưa có đơn yêu cầu thi hành án.
Năm 2023 bị Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai đã áp dụng Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự về tình tiết tăng nặng là "Tái phạm" đối với bản án số 28/2018/HS - ST ngày 13/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Sa Pa và xử phạt Nguyễn Đình T 09 (Chín) tháng tù về tội " Trộm cắp tài sản" và buộc Nguyễn Đình T phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm, theo bản án hình sự sơ thẩm số 33/2023/HSST ngày 12/6/2023. Ngày 15/9/2023 Nguyễn Đình T chấp hành xong khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm. Ngày 22/11/2023 Nguyễn Đình T chấp hành xong hình phạt tù. Tính đến thời điểm phạm tội lần này (ngày 12/6/2024) thì bị cáo chưa được xóa án tích đối với các bản án nói trên.
Tiền sự: Không. Nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu năm 2016 bị Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 12 tháng kể từ ngày 18/7/2016. Đến ngày 18/7/2017 bị cáo chấp hành xong quyết định. Năm 2018 bị cáo bị công an huyện B xử phạt vi phạm hành chính về hành vi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác bằng hình thức phạt tiền là 1.500.000đ theo quyết định số 23/QĐ XPHC ngày 29/6/2018. Đến nay bị cáo đã chấp hành xong các quyết định. Tiếp đó đến ngày 05/9/2018 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai xử phạt 07 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" và 01 năm tù về tội " Lừa đảo chiếm đoạt tài sản". Tổng hợp hình phạt bị cáo Nguyễn Đình T phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 01 (Một) năm 07 (Bảy) tháng tù theo bản án số 38/2018/HS-ST. Đến ngày 04/9/2020 bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án. Tính đến thời điểm phạm tội lần này (Ngày 12/6/2024) bị cáo Nguyễn Đình T đã được xóa tiền án, tiền sự nêu trên.
Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 30/6/2024, tạm giam ngày 09/7/2024. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện B, tỉnh Lào Cai - Có mặt tại phiên toà.
Bị hại: Anh Triệu Kim H; Sinh năm: 2004. Trú tại: Thôn P, xã P, huyện B, tỉnh Lào Cai - Có mặt tại phiên tòa. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Nguyễn Văn T3 - Sinh năm 1963 Trú tại: Thôn Đ, xã A, huyện V, tỉnh Yên Bái - Vắng mặt (Đã có đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Chị Trần Thị Lệ C1 - Sinh năm: 1986 Trú tại: Thôn P, xã P, huyện B, tỉnh Lào Cai - Vắng mặt (Đã có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do Nguyễn Đình T là đối tượng nghiện chất ma túy, nên 07 giờ sáng ngày 12/6/2024 Nguyễn Đình T đi bộ từ thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai đến khu vực xã P để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Do không mua được ma túy nên Nguyễn Đình T tiếp tục đi bộ quay về thị trấn P, khi đến gần trường trung học cơ sở S xã P, huyện B, tỉnh Lào Cai gặp anh Triệu Kim H, sinh năm 2004 là người trú tại thôn P, xã P đang đạp xe để nổ máy xe mô tô biển kiểm soát 24B2-X do anh Triệu Kim H mượn của chị Trần Thị Lệ C1 là người trú tại thôn P, xã P để làm phương tiện đi lại, lúc này khoảng 08 giờ cùng ngày 12/6/2024. Khi gặp Triệu Kim H Nguyễn Đình T hỏi H cho đi nhờ xe, H đồng ý, cả hai cùng đạp xe nổ máy sau đó Nguyễn Đình T điều khiển xe chở H ngồi phía sau đi được khoảng 01 Km thì xe hết xăng, nên cả hai dắt xe đến quán của chị Đình Thị T4 ở gần chợ xã P thuộc thôn P, xã P mua xăng, sau đó Nguyễn Đình T chở Triệu Kim H đi tiếp đến đường K, thuộc tổ dân phố P, thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai, lúc này Nguyễn Đình T nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe máy của Trần Kim H1. Đồng thời Nguyễn Đình T nhìn thấy quán bánh mỳ, nên bảo H xuống xe mua bánh mỳ, anh H1 vừa xuống xe thì Nguyễn Đình T điều khiển xe máy đi luôn về hướng đường A, thấy vậy anh H1 gọi theo " Anh ơi" và đi về phía T nhưng T vẫn điều khiển xe máy đi, đồng thời ngoảnh mặt lại nói " Đứng đấy đợi tý anh quay lại" nhằm mục đích để anh H1 không đuổi theo Nguyễn Đình T nữa. Tuy nhiên anh H1 vẫn chạy theo đằng sau và nói" Anh ơi không cần nữa đâu" nhưng Nguyễn Đình T vẫn điều khiển xe chạy và tẩu thoát. Sau khi chiếm đoạt được chiếc xe của anh Triệu Kim H, Nguyễn Đình T sử dụng đến ngày 21/6/2024 Nguyễn Đình T điều khiển đem xe đến xã Đ huyện V, tỉnh Yên Bái mua ma túy sử dụng và sau đó bán chiếc xe chiếm đoạt được của anh Triệu Kim H cho ông Nguyễn Văn T3, sinh năm 1963, là người trú tại thôn Đ, xã A, huyện V, tỉnh Yên Bái được 2.200.000đ. Số tiền này bị cáo đã chi tiêu hết không thu hồi được. Đến ngày 29/6/2024 Triệu Kim H sau khi đi tìm không thấy Nguyễn Đình T nên đã đến công an thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai để trình báo sự việc. Cùng ngày 29/6/2024 Công an thị trấn P đã triệu tập Nguyễn Đình T đến làm việc và chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án đến cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện B để giải quyết theo thẩm quyền. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện B đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can Nguyễn Đình T về hành vi "Cướp giật tài sản".
Về vật chứng: Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Dream II biển kiểm soát 24B2- X của ông Nguyễn Văn T3 là người mua chiếc xe trên do bị cáo Nguyễn Đình T đã chiếm đoạt được của anh Triệu Kim H.
Tại kết luận định giá tài sản số 20/LK-HĐĐGTS ngày 05/7/2024 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B, kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Honda, loại Dream II, sản xuất năm 1994, xe cũ đã qua sử dụng trị giá 7.000.000đ (Bảy triệu đồng).
Cáo trạng số 37/CT-VKSBT ngày 28/8/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Nguyễn Đình T về tội “Cướp giật tài sản” với tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại Điểm i Khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Đình T và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội " Cướp giật tài sản".
Đề nghị áp dụng Điểm i Khoản 2 Điều 171; Điểm h, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T từ 03 (Ba) năm 03 (Ba) tháng đến 03 (Ba) năm 09 (Chín) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 582 của Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Nguyễn Đình T phải có trách nhiệm hoàn trả cho ông Nguyễn Văn T3 số tiền ông T3 bỏ ra mua chiếc xe của bị cáo do phạm tội mà có là 2.200.000đ ( Hai triệu, hai trăm nghìn đồng).
Về vật chứng: Viện kiểm sát không đề cập xử lý. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự, dân sự theo quy định của pháp luật. Tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh Lào Cai, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án không có ý kiến gì và không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp và đúng với trình tự thủ tục tố tụng quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đình T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội theo như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Thắng đã truy tố cụ thể: Do bản thân là đối tượng nghiện chất ma túy, không có tiền tiêu xài phục vụ cho bản thân. Ngày 12/6/2024 tại tổ dân phố P, thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai Nguyễn Đình T đã thực hiện hành vi cướp giật tài sản của anh Triệu Kim H 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 24B2- X có trị giá là 7.000.000đ (Bảy triệu đồng) đem bán lấy tiền để tiêu sài cá nhân. Quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Đình T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp khách quan với các tài liệu chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án, vật chứng thu giữ, kết luận định giá tài sản. Bị cáo Nguyễn Đình T là đối tượng nghiện chất ma túy, có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị kết án và bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù và các quyết định, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân, để tu dưỡng rèn luyện. Mặt khác năm 2023 bị cáo Nguyễn Đình T bị Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai đã xử phạt 09 (Chín) tháng tù về tội " Trộm cắp tài sản" và buộc Nguyễn Đình T phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm, theo bản án hình sự sơ thẩm số 33/2023/HSST ngày 12/6/2023. Bản án này đã áp dụng tình tiết "Tái phạm" đối với bị cáo Nguyễn Đình T và đến nay chưa được xóa án tích. Như vậy có đủ cơ sở khẳng định hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Đình T đã phạm tội “ Cướp giật tài sản” theo tình tiết định khung hình phạt là "Tái phạm nguy hiểm" theo quy định tại Điểm i Khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự như bản cáo trạng và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an ở địa phương. Xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Do vậy đối với bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh và lên một mức án phù hợp tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội, gia đình và phòng ngừa chung.
[3] Liên quan trong vụ án còn có ông Nguyễn Văn T3 là người đã mua chiếc xe mô tô biển kiểm soát 24B2 - X là tài sản do thực hiện hành vi phạm tội mà có của Nguyễn Đình T với số tiền là 2.200.000đ. Quá trình điều tra xác định khi mua bán ông Nguyễn Văn T3 không biết đây là tài sản do bị cáo phạm tội mà có. Nên cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không đề cập xử lý trách nhiệm hình sự đối với ông Nguyễn Văn T3. Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp nên không đề cập xử lý.
[4] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo Nguyễn Đình T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
[5] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo Nguyễn Đình T có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm h, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đó là "Phạm tội gây thiệt hại không lớn" và "Thành khẩn khai báo".
[6] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Nguyễn Đình T là đối tượng nghiện chất ma túy, không có tài sản. Viện kiểm sát không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu hồi và trả lại chiếc xe biển kiểm soát 24B2 - X cho bị hại là anh Triệu Kim H và chị Trần Thị Lệ C1 là chủ sở hữu chiếc xe theo quyết định xử lý vật chứng số 364/QĐ-ĐCSHS ngày 15/7/2024 và biên bản về việc trả lại tài sản đồ vật, tài liệu ngày 15/7/2024 cho anh Triệu Kim H là bị hại trong vụ án. Đến nay bị hại anh Triệu Kim H và chị Trần Thị Lệ C1 là chủ sở hữu tài sản không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm khoản chi phí nào khác. Viện kiểm sát không đề cập. Nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T3 có yêu cầu bị cáo Nguyễn Đình T phải có trách nhiệm hoàn trả lại cho ông số tiền 2.200.000đ (Hai triệu, hai trăm nghìn đồng) ông bỏ ra mua chiếc xe biển kiểm soát 24B2 - X của Nguyễn Đình T. Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại cho chủ sở hữu. Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 582 của Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Nguyễn Đình T phải có trách nhiệm hoàn trả cho ông Nguyễn Văn T3 số tiền là 2.200.000đ ( Hai triệu, hai trăm nghìn đồng) là có căn cứ, đúng pháp luật. Nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn T3 và buộc bị cáo phải hoàn trả số tiền nêu trên cho ông Nguyễn Văn T3 là có căn cứ đúng pháp luật.
[8] Về vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại cho người bị hại anh Triệu Kim H và chị Trần Thị Lệ C1 là chủ sở hữu chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream II biển kiểm soát 24B2- X theo quyết định xử lý vật chứng số 364/QĐ-ĐCSHS ngày 15/7/2024 và biên bản trả lại tài sản đồ vật tài liệu ngày 15/7/2024. Sau khi nhận lại tài sản anh Triệu Kim H và chị Trần Thị Lệ C1 không có ý kiến gì. Viện kiểm sát không đề cập xử lý. Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp nên không đề cập xử lý.
[9] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đình T phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội "Cướp giật tài sản".
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 30/6/2024.
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 582 của Bộ luật dân sự.
Buộc bị cáo Nguyễn Đình T phải có trách nhiệm hoàn trả cho ông Nguyễn Văn T3 số tiền là 2.200.000đ ( Hai triệu, hai trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong khoản tiền trên, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất chậm trả do ngân hàng N quy định tương ứng với thời gian chậm thi hành án theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự.
3. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn Đình T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Tổng cộng hai khoản là 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, người bị hại; Vắng mặt những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Báo cho bị cáo, bị hại, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 42/2024/HS-ST
Số hiệu: | 42/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bảo Thắng - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/09/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về