Bản án về tội cướp giật tài sản số 408/2019/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 408/2019/HSPT NGÀY 25/11/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 259/2019/TLPT-HS ngày 29 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo Đặng Văn Th, do có kháng cáo của bị cáo Đặng Văn Th đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 317/2019/HS-ST ngày 18/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

B cáo kháng cáo:

Họ và tên: Đặng Văn Th (tên gọi khác L), sinh năm 1997 (có mặt); Nơi cư trú: Ấp M, xã Kh, huyện Tr, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đặng Văn T, sinh năm 1968; và bà: Nguyễn Thị Th1, sinh năm 1970; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt tạm giữ ngày 15/11/2018, chuyển tạm giam theo lệnh số: 578 ngày 22/11/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

(Trong vụ án còn có bị cáo Đặng Văn Đ, bị cáo Lê Bắc C, người bị hại bà Trần Thị L, chị Nguyên Thị Hải L1, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đặng Văn Nh nhưng không có kháng cáo nên không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Để có tiền tiêu xài, Lê Bắc C, Đặng Văn Th, Đặng Văn Đ đã rủ nhau đi cướp giật tài sản để lấy tiền tiêu xài, cụ thể như sau :

Vụ thứ nhất: Khoảng 10 giờ ngày 30/10/2018, Đặng Văn Đ rủ Đặng Văn Th đi cướp giật tài sản thì Th đồng ý, Đ điều khiển xe mô tô hiệu dream không có biển số, số máy 001563 chở Th ngồi sau lưu thông trên đường thuộc ấp V, xã Ph, thành phố B thì phát hiện bà Trần Thị L, sinh năm 1965, tổ X, khu phố Y, phường L3, thành phố B điều khiển xe mô tô đi phía trước cùng chiều, tay trái bà L cầm 01 bóp nhựa bên trong có số tiền 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng), 01 điện thoại di động Samsung S2, 01 chùm chìa khóa nhà và giấy tờ tùy thân, Đ điều khiển xe mô tô sát bên trái bà L để cho Th ngồi sau giật lấy chiếc bóp rồi Đ điều khiển xe tẩu thoát về đường hẻm thuộc ấp H, xã Ph, thành phố Biên Hòa lục bóp lấy số tiền 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng), 01 điện thoại di động Samsung S2 còn bóp nhựa và giấy tờ tùy thân vứt bên đường, số tiền chiếm đoạt được Đ và Th chia nhau mỗi người 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng), còn chiếc điện thoại Sam sung S2 thì Đ đem bán cho một người phụ nữ (chưa rõ lai lịch) được 700.000 đồng (Bảy trăm nghìn đồng) mua ma túy cùng Th sử dụng hết.

Tang vật của vụ án:

- Số tiền 800.000 đồng, 01 bóp hiệu Simali và 01 điện thoại di động hiệu Samsung S2, 01 chùm chìa khóa không thu hồi được.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 78/TCKH-HĐĐG ngày 14/03/2019, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đã kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung S2, 01 cái bóp nhựa. Tài sản chưa thu hồi được, trên cơ sở lời khai bị hại, không xác định được cấu hình, nhãn hiệu, không đủ cơ sở định giá, hội đồng thống nhất không định giá.

Về bồi thường dân sự: Bà Trần Thị L yêu cầu các bị cáo phải bồi thường số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng). Hiện các bị cáo chưa bồi thường.

Vụ thứ 2: Khoảng 18 giờ ngày 13/11/2018, Lê Bắc C rủ Đặng Văn Đ và Đặng Văn Th đi cướp giật tài sản thì cả hai đồng ý, Th điều khiển xe mô tô biển số 51Y1-9791, số máy V801108, Đức điều khiển xe mô tô không biển số, số máy 001563 còn C điều khiển xe mô tô, biển số 60T9-2582 cùng nhau đi vào khu công nghiệp Biên Hòa II tìm ai sơ hở thì cướp giật tài sản, đến khoảng 21 giờ cùng ngày, khi đi trên đường z, thuộc khu công nghiệp Biên Hòa II, cả 03 phát hiện chị Nguyễn Thị Hải L1, sinh năm 1993, ngụ tại xã Ph1, huyện Đ1, tỉnh Đồng Nai điều khiển xe mô tô đi phía trước cùng chiều, trong túi quần bên phải chị L1 để 01 điện thoại di động hiệu Samsung A7, Th điều khiển xe mô tô áp sát bên phải chị L1 giật lấy chiếc điện thoại rồi tăng ga xe chạy, chị L1 tri hô và đuổi theo thì Đ và C điều khiển xe mô tô vượt lên phía trước để ngăn chặn chị L1 và người dân đuổi theo Th. Nghe tiếng tri hô của chị L1, ông Nguyễn Huỳnh T1, sinh năm 1989 là chồng chị L1 đang điều khiển xe trên đường liền đuổi theo và bắt được Lê Bắc C giao cho Công an Đồn khu công nghiệp Biên Hòa lập biên bản bắt người phạm tội quả tang rồi chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa để điều tra, xử lý. Riêng Th và Đ chạy thoát. Qua điều tra ngày 14/11/2018 và ngày 15/11/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã ra lệnh bắt khẩn cấp đối với Đặng Văn Đ, Đặng Văn Th để điều tra xử lý.

Tang vật vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung A7, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu hồi trả lại cho chị L1.

- 01 xe mô tô hiệu dream, biển số 60T9-2582, do Lê Bắc C sử dụng vào việc phạm tội. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên là của bà Đỗ Thị Ch, sinh năm 1973 là mẹ ruột của C đưa cho C mượn và không biết C sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho bà Ch.

- 01 điện thoại di động hiệu nokia 1280 của Lê Bắc C.

- 01 xe mô tô hiệu dream biển số 51Y1-9791 số máy 801108, Đặng Văn Th sử dụng vào việc phạm tội. Qua điều tra xác định chiếc xe trên có biển số thật là 76B1-061.92 do anh Huỳnh Thanh L3, sinh năm 1968, ngụ tại thôn B, xã H1, huyện Ngh, tỉnh Quảng Ngãi đứng tên sở hữu, xe đã cũ và hư nên anh L3 đã bán cho 01 tiệm phế liệu tại thành phố Biên Hòa sau đó anh Đặng Văn Nh, sinh năm 1995 là anh trai của Đặng Văn Th mua lại xe và nhặt được biển số xe 51Y1-9791 gắn vào xe và cho Th mượn và không biết Th sử dụng vào việc phạm tội.

- 01 xe mô tô hiệu dream không biển số, số máy 001563 là phương tiện Đ sử dụng vào việc phạm tội. Qua điều tra xác định chiếc xe trên là do anh Lai Lương V, sinh năm 1982, ngụ tại xã Ph2, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai là người đứng tên chủ sở hữu, quá trình sử dụng thì anh Và cho anh Lầu Dí C1 (chưa rõ địa chỉ) ở huyện Long Thành để sử dụng, hiện nay cơ quan điều tra chưa làm việc được với anh C nên tách ra làm rõ và xử lý sau.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 536/TCKH-HĐĐG ngày 29/12/2018, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đã kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7, có giá trị định giá là 7.562.500 đồng (Bảy triệu năm trăm sáu mươi hai nghìn năm trăm đồng).

Về bồi thường dân sự: Chị Nguyễn Thị Hải L1 đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường.

Bị cáo Th đã trực tiếp thực hiện 02 vụ cướp giật tài sản với tổng giá trị tài sản đã chiếm đoạt của các bị hại là 8.362.500đ.

- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 317/2019/HS-ST ngày 18/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa quyết định: Tuyên bố các bị cáo Đặng Văn Đ, Đặng Văn Th và Lê Bắc C phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Đặng Văn Đ 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/11/2018.

Xử phạt bị cáo Đặng Văn Th 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/11/2018.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Lê Bắc C 03 (ba) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/11/2018.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 357, Điều 468, Điều 586; Điều 587 Bộ luật dân sự năm 2015.

Bị cáo Đặng Văn Đ có trách nhiệm bồi thường cho bà Trần Thị L số tiền 1.500.000đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng).

Bị cáo Đặng Văn Th có trách nhiệm bồi thường cho bà Trần Thị L số tiền 1.500.000đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng).

Ngoài ra bản án còn tuyên xử lý vật chứng, nghĩa vụ chậm Thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

- Ngày 05/6/2019, bị cáo Đặng Văn Th có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Lý do: Bản án tuyên phạt Đặng Văn Th 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù cho bị cáo là quá nặng vì trong quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, là lao động chính trong gia đình.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tại phiên tòa:

Tại phiên tòa phúc thẩm, phát sinh tình tiết mới là anh ruột bị cáo Đặng Văn Th là anh Đặng Văn H2 cùng dì ruột bà Nguyễn Thị Mỹ Ch1, sinh năm 1979, hộ khẩu khu phố B1, phường L2, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai khai bị cáo Đặng Văn Th, tên thật là Đặng Văn L (tên ở nhà là Th), cha ruột là ông Đặng Văn T, sinh năm 1970; mẹ ruột là bà Nguyễn Thị Th1, sinh năm 1971; anh ruột Đặng Văn H2, sinh năm 1993, anh ruột Đặng Văn L4, sinh năm 1995 (nộp kèm theo so hộ khau, chứng minh nhân dân photo của anh Đặng Văn H2, ông Đặng Văn T, trích lục khai sinh của bị cáo). Hiện nay, lý lịch của bị cáo chưa được làm rõ mà tại cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, do đó, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên hủy 01 phần bản án hình sự sơ thẩm đối với lý lịch của bị cáo Đặng Văn Th, giao lại cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa điều tra, truy tố lại theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Đặng Văn Th làm trong thời hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về lý lịch của bị cáo Đặng Văn Th:

Căn cứ theo hồ sơ vụ án, trong tất cả các bản tự khai của bị cáo Đặng Văn Th tại Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Quyết định điều tra, truy tố, xét xử, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân, Bản án của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa bị cáo đều khai nhận tên của mình là Đặng Văn Th (tên gọi khác L), sinh năm 1997 (có mặt); Nơi cư trú: Ấp M, xã Kh, huyện Tr, tỉnh Cà Mau; con ông: Đặng Văn T, sinh năm 1968; và bà: Nguyễn Thị Th1, sinh năm 1970; chưa có vợ, con;

Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm, gia đình bị cáo (anh ruột Đặng Văn H2, dì ruột bà Nguyễn Thị Mỹ Ch) cung cấp chứng cứ mới chứng minh bị cáo Đặng Văn Th, tên trong khai sinh và sổ hộ khẩu là Đặng Văn L, có cha ruột là ông Đặng Văn T, sinh năm 1970; mẹ ruột là bà Nguyễn Thị Th1, sinh năm 1971; anh ruột Đặng Văn H2, sinh năm 1993, anh ruột Đặng Văn L, sinh năm 1995.

Như vậy, lý lịch của bị cáo Đặng Văn Th (Đặng Văn L) mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử là không chính xác, việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được, cần phải hủy án để giao hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa điều tra, truy tố lại theo quy định pháp luật.

Đối với bị cáo Đặng Văn Đ, Lê Bắc C không có kháng cáo, không có kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hiệu kháng cáo kháng nghị.

[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[4] Về án phí:

Án phí sơ thẩm: Do bản án bị hủy nên án phí sơ thẩm sẽ được Tòa án xem xét lại khi Tòa án xét xử lại vụ án.

Án phí phúc thẩm: bị cáo Đặng Văn Th không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm C khoản 1 Điều 355; điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Hủy một phần bản án sơ thẩm số 317/2019/HS-ST ngày 18/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã xét xử đối với bị cáo Đặng Văn Th.

2. Giao hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa điều tra lại theo thủ tục chung.

3. Về án phí: Bị cáo Đặng Văn Th không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hình sự sơ thẩm và án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 408/2019/HSPT

Số hiệu:408/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về