Bản án về tội cướp giật tài sản số 37/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 37/2024/HS-ST NGÀY 28/08/2024 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 28 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2024/HSST ngày 07/6/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2024/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 7 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2024/HSST- QĐ ngày 06 tháng 8 năm 2024, đối với bị cáo:

Nguyễn Hửu D, sinh ngày 22/3/1982; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn 1 T, xã T, huyện L, tỉnh Q; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 1954 và con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1958; vợ Trần Thị Giang, sinh năm 1979; con: Có 01 con sinh năm 2013.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 19/11/2004 bị Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/01/2024, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình, có mặt.

- Bị hại: Chị Phạm Thị Ngọc T, sinh năm 2007; địa chỉ: Thôn G, xã T, huyện L, tỉnh Q, vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Phạm Ngọc H, sinh năm 1977; địa chỉ: Thôn G, xã T, huyện L, tỉnh Q, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Đoàn Ngọc S, sinh năm 1987; địa chỉ: Số 7 đường N, tổ dân phố D, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Q, vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Hửu T, sinh năm 1954; địa chỉ: Thôn 1 T, xã T, huyện L, tỉnh Q, có mặt.

3. Anh Nguyễn Hửu Q, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn 1 T, xã T, huyện L, tỉnh Q, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ 15 phút ngày 16/01/2024, Nguyễn Hửu D, sinh năm 1982, trú tại thôn 1 T, xã T, huyện L, tỉnh Q điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 73L1 – 54xx (xe của Nguyễn Hửu Q là em trai D) rời khỏi nhà ở thôn 1 T, xã Thanh T đi vào thị trấn K để đổ xăng. Khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi trên đường T thuộc địa phận Tổ dân phố T, thị trấn K, D nhìn thấy cháu Phạm Thị Ngọc T, sinh năm 2007, trú tại thôn G, xã T đang điều khiển xe đạp điện đi cùng chiều, đeo 01 (một) túi cặp sách trên lưng, bên trái túi cặp sách có để 01 (một) cái điện thoại di động. Thấy cái điện thoại di động lộ ra bên ngoài, D nảy sinh ý định cướp giật tài sản. D điều khiển xe mô tô áp sát cháu T rồi dùng tay phải giật cái điện thoại nhãn hiệu Apple, loại Iphone 14, màu trắng, ra khỏi túi cặp sách của cháu T rồi điều khiển xe mô tô tăng tốc bỏ chạy theo hướng đường thôn Đ, xã L đi ngã tư C, xã C và đi về nhà. Sau khi bị giật cái điện thoại thì cháu T kêu lên hô hoán mọi người và điều khiển xe đạp điện đuổi theo xe mô tô của D một đoạn nhưng không đuổi kịp. Sáng ngày 18/01/2024, Nguyễn Hửu D đi đến quán sửa chữa điện thoại N tại phường N, thành phố Đ, tỉnh Q để cài lại mật khẩu của máy điện thoại nhãn hiệu Apple, loại Iphone 14, màu trắng mà D cướp giật được. D gặp Đoàn Cao S , sinh năm 1987, trú tại phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Q là chủ quán điện thoại N và thuê S mở khóa màn hình điện thoại với lý do quên mật khẩu. S hẹn D mấy ngày sau đến lấy và D để lại số điện thoại của mình để khi nào sửa xong thì gọi xuống lấy điện thoại. Đến chiều ngày 18/01/2024, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lệ Thủy đã làm việc với anh Đoàn Cao S, tạm giữ điện thoại di động trên. Ngày 24/01/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lệ Thủy đã triệu tập Nguyễn Hửu D để làm việc. Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Hửu D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số: 06/TB-KLĐG ngày 31/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Lệ Thủy thông báo kết quả định giá: “Điện thoại nhãn hiệu Apple, loại Iphone 14, dung lượng 128GB, màu trắng, máy đã qua sử dụng có trị giá 15.000.000 đồng”

Về vật chứng: Ngày 18/01/2024 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lệ Thủy đã tạm giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại IPhone 14, màu trắng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX biển kiểm soát 73L1- 54xx.

Ngày 26/01/2024, Cơ quan điều tra đã trả lại điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 14, dung lượng 128GB, màu trắng cho chị Phạm Thị Ngọc T là chủ sở hữu.

Tại bản Cáo trạng số: 26/CT-VKS ngày 06/6/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thủy đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu D về tội "Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự. Qua tranh luận tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu D từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù. Về xử lý vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự ; điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, trả lại 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX biển kiểm soát 73L1- 54xx, đã qua sử dụng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp; không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo không phát biểu lời bào chữa, không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát về quan điểm luận tội.

Lời nói sau cùng tại phiên tòa của bị cáo: Bị cáo đã hối hận về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Lệ Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thủy và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và người tham gia tố tụng không ai có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Chứng cứ xác định có tội và điều luật áp dụng:

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận tất cả hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại cũng như các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra đã thu thập, đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 16/01/2024 tại đường T thuộc địa phận Tổ dân phố T, thị trấn K, huyện L, tỉnh Q, Nguyễn Hửu D điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX biển kiểm soát 73L1- 54xx thực hiện hành vi cướp giật 01 chiếc điện thoại di động hiệu Apple, loại IPhone 14, màu trắng của chị Phạm Thị Ngọc T để trong túi cặp sách trên lưng khi đang điều khiển xe đạp điện cùng chiều trị giá 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng), hành vi của bị cáo là coi thường pháp luật, với thủ đoạn nguy hiểm, trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Tuy bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, tính chất vụ án là rất nghiêm trọng đã trực tiếp xâm hại quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Tuy bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng xét về nhân thân: Ngày 19/11/2004 bị Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, về tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó, bị cáo có nhân thân không tốt, coi thường pháp luật mà phạm tội. Vì vậy, cần có một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, cần cách ly bị cáo một thời gian để có điều kiện cải tạo, giáo dục trở thành công dân tốt mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra vụ án cũng như xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo đều tỏ thái độ thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Sau khi T luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhất trí áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 171 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”. Tuy nhiên theo tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản riêng. Vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Trong vụ án, Đoàn Cao S được Nguyễn Hửu D thuê mở mật khẩu điện thoại nhưng S không biết điện thoại là do D cướp giật mà có nên không phạm tội, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX biển kiểm soát 73L1- 54xx là của anh Nguyễn Hửu Q để ở nhà cho ông Nguyễn Hửu T sử dụng, ông T cho D mượn xe sử dụng để đi lại; anh Q, ông T không biết D sử dụng xe mô tô đi cướp giật tài sản nên không phạm tội, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vật chứng: Vật chứng tạm giữ để điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã xử lý trả lại cho chủ sử hữu hoặc người đại diện hợp pháp chủ sở hữu đúng theo quy định của pháp luật, không ai có ý kiến, khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Riêng 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX biển kiểm soát 73L1- 54xx là của anh Nguyễn Hửu Q để ở nhà cho ông Nguyễn Hửu T sử dụng, ông Tiến cho D mượn xe sử dụng để đi lại; ông Q, ông T không biết việc D sử dụng xe mô tô nói trên đi cướp giật tài sản nên cần trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật hình sự;

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hửu D phạm tội “Cướp giật tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hửu D 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 25/01/2024.

Quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Hửu D 45 (bốn lăm) ngày để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng: Trả lại 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX biển kiểm soát 73L1- 54xx đã qua sử dụng cho Nguyễn Hửu Q là chủ sở hữu người quản lý hợp pháp.

(Tất cả có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/6/2024).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hửu D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (28/8/2024); Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt thì thời hạn kháng cáo 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 37/2024/HS-ST

Số hiệu:37/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/08/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về