TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BĐ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 33/2024/HS-ST NGÀY 12/03/2024 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 12 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận BĐ, thành phố Hà Nội đưa ra xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2024/TL-HSST ngày 16 tháng 01 năm 2024; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2024/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 02 năm 2024 đối với các bị cáo:
Bị cáo XXX sinh năm 19xx; Đăng ký hộ khẩu thường trú: số xx ngõ xxxB Nguyễn Trãi, phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội; Nơi ở hiện tại: Số x ngõ x Đội Nhân, phường VP, quận BĐ, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Học vấn: 8/12; Bố đẻ: XXX, sinh năm 19xx (19xx); Mẹ đẻ: XXX, sinh năm 19xx; Gia đình có 02 anh em, bị can là con thứ nhất; Vợ: XXXX, sinh năm 19xx. Có 02 con, lớn sinh năm 20xx, nhỏ sinh năm 20xx.
Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:
- Bản án số 74 ngày 09/02/1995, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm xử phạt 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách là 16 tháng về tội Trộm cắp tài sản. Bị can đã chấp hành xong các quyết định của bản án và đã được xóa án tích.
- Bản án số 388 ngày 07/12/2007, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm xử phạt 30 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. X đã nộp án phí dân sự ngày 12/6/2008. Ra trại ngày 26/10/2009. Bị can đã chấp hành xong các quyết định của bản án và đã được xóa án tích.
- Bản án số 13 ngày 29/02/2012, Tòa án nhân dân quận Tây Hồ xử phạt 40 tháng tù giam về các tội Trộm cắp tài sản và Tàng trữ trái phép chất ma tuý. X đã nộp án phí dân sự ngày 10/7/2012. Ra trại ngày 02/9/2014. Bị can đã chấp hành xong các quyết định của bản án và đã được xóa án tích.
Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội; Số giam: 4052C2/Buồng 6; Ngày bắt: 19/7/2023.
* Bị hại: XXXX, sinh năm 19xx; HKTT: Số xB ngách xxx/xx Bùi Xương Trạch, Khương Đình, Thanh Xuân, thành phố Hà Nội; Nơi ở hiện tại: Số x ngõ xx Nguyễn Chí Thanh, Ngọc Khánh, quận BĐ, thành phố Hà Nội.
XXX, sinh năm 19xx; Nơi cư trú: Thôn Hạ Thái, xã Duyên Thái, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.
XXX, sinh năm 19xx; Nơi cư trú: số xx ngách xx/xx Nhân Hòa, Nhân Chính, Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
(chị X, X, X đều có đơn xin xét xử vắng mặt).
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liện quan: XXX, sinh năm 19xx; HKTT: xxx – Hxx Tân Mai, quận Hoàng Mai, thành phố Hoàng Mai; Nơi cư trú: Số x ngõ x Đội Nhân, phường VP, quận BĐ, thành phố Hà Nội. (có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 23h00’ ngày 19/7/2023, tại Công an quận BĐ, thành phố Hà Nội đã tiến hành bắt giữ bị cáo XXX. Vào các ngày 15/6/2023; 23/6/2023 và ngày 16/7/202320/3/2023, tại khu vực các phường Nhân Hòa, quận Cầu Giấy; Phố Hàng Mã, quận Hoàn Kiếm và phường Giảng Võ, quận BĐ, XXX đã thực hiện 03 vụ cướp giật tài sản.
- Vụ thứ nhất: Khoảng 08h30’ ngày 15/6/2023, XXX điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda SH mode màu ghi xám BKS 29G1 - 985.xx đi quanh các tuyến phố để cướp giật tài sản (trước đó X đã tháo biển kiểm sát xe này). Khi đi đến khu vực phố Nhân Hòa hướng đi Vũ Trọng Phụng, X phát hiện thấy bà XXX (SN: 19xx, HKTT: xx ngách xx/xx Nhân Hòa, Nhân Chính, Thanh Xuân, Hà Nội) đang đi bộ theo hướng Vũ Trọng Phụng rẽ vào ngõ xx Nhân Hòa, trên cổ có đeo 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng (là loại vòng đeo cổ ổn định huyết áp, có gắn đá nhiều màu), X điều khiển xe máy đi theo bà X vào trong ngõ xx Nhân Hòa rồi đi qua bà X để quan sát và thăm dò. Sau đó, X vòng quay đầu để tiếp cận từ phía sau. Khi bà X đi đến trước cửa nhà số x ngõ xx Nhân Hòa, X phóng xe và dùng tay trái giật mạnh sợi dây chuyền trên cổ bà X. Bà X dùng tay giữ dây chuyền ở cổ và bị ngã ra đường. Do không chiếm đoạt được tài sản, X đã điều khiển xe máy tẩu thoát.
- Vụ thứ hai: Khoảng 14h30’ ngày 23/6/2023, với thủ đoạn như trên, XXX tiếp tục điều khiển xe máy đi quanh các tuyến phố trên địa bàn quận Hoàn Kiếm để cướp giật tài sản. Đến 16h00’ cùng ngày 23/6/2023, khi đi đến phố Hàng Mã hướng đi Lương Văn Can, X quan sát thấy chị XXX (SN: 19xx, HKTT: Thôn Hạ Thái, xã Duyên Thái, Thường Tín, Hà Nội) đang đi bộ trên phố Hàng Mã hướng về phía X, trên cổ có đeo sợi dây chuyền màu vàng. X điều khiển xe vượt qua rồi vòng quay đầu để áp sát từ phía sau. Khi chị X đi đến trước nhà số xx Hàng Mã, X phóng xe và dùng tay trái giật mạnh sợi dây chuyền màu vàng trên cổ chị X rồi tăng ga phóng xe bỏ chạy. Sau khi giật được sợi dây chuyền, X về nhà kiểm tra rồi móc lại mối nối bị đứt. Chiều cùng ngày, X lấy dây chuyền vừa cướp giật được đưa cho vợ là chị XXXX (SN 19xx; Chỗ ở số x ngõ x Đội Nhân, VP, BĐ, Hà Nội) xem, chị X có hỏi về nguồn gốc sợi dây chuyển, X nói là có người trả nợ. Chị X tiếp tục gặng hỏi, X quát và nói “Dây chuyền tao cướp được” nên X không dám hỏi nữa. Sau đó, X cất dây chuyền trong người rồi bảo chị X đi cùng có việc, chị X không đồng ý đi nhưng X ép chị X đi cùng. X điều khiển xe máy chở chị X đến cửa hàng vàng Kiên Thơm tại số xxx, TDP Thượng x, phường Tây Tựu, Bắc Từ Liêm, Hà Nội để bán dây chuyền vàng. Khi đến cửa hàng vàng, X bảo chị X đợi ở ngoài cửa, còn một mình đi vào của hàng bán cho chị XXX (SN: 19xx, HKTT: TDP Thượng x, Tây Tựu, Bắc Từ Liêm, Hà Nội) sợi dây chuyền trên được số tiền 18.000.000 đồng. Sau đó, X và chị X đi về nhà. Tại đây, X đưa cho chị X số tiền 10.000.000 đồng nói tiền chi tiêu cho gia đình, số tiền còn lại X đã chi tiêu cá nhân hết.
Ngày 23/6/2023, chị XXX đến Cơ quan CSĐT – Công an quận Hoàn Kiếm để trình bày lời khai về sự việc.
- Vụ thứ ba: Khoảng 14h00’ ngày 16/7/2023, với thủ đoạn như trên, XXX tiếp tục điều khiển xe máy đi quanh các tuyến phố trên địa bàn quận BĐ để cướp giật tài sản. Khi đi từ phố Giảng Võ rẽ phải vào Đê La Thành, X phát hiện chị XXXX (SN: 19xx, HKTT: Số xB ngách xxx/xx Bùi Xương Trạch, Khương Đình, Thanh Xuân, Hà Nội) đang đi bộ sát lề đường hướng về phía X, trên cổ có đeo một sợi dây chuyền màu vàng, X điều khiển xe máy đi vượt qua rồi quay đầu vòng lại áp sát từ phía sau chị X. Khi chị X đi đến trước số nhà xxx Đê La Thành, Gỉang Võ, BĐ, Hà Nội, X tăng ga xe máy tiếp cận, dùng tay trái, giật mạnh sợi dây chuyền trên cổ chị X, rồi điều khiển xe máy tẩu thoát. Sau khi giật được sợi dây chuyền, X về nhà kiểm tra rồi móc lại mối khoá bị bung. Đến khoảng 17h00’ cùng ngày 16/7/2023, X cầm sợi dây chuyền vừa cướp giật được đưa cho chị X xem, chị X có nghi ngờ gặng hỏi về nguồn gốc sợi dây chuyển, X quát và nói “Tao giật được đấy” nên chị X sợ không dám hỏi nữa. Sau đó, X cất dây chuyền trong người rồi ép chị X đi có việc cùng với X. X điều khiển xe máy chở chị X đến cửa hàng vàng Kiên Thơm tại số xxx, TDP Thượng x, phường Tây Tựu, Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Khi đến cửa hàng vàng, X bảo chị X đợi ở ngoài cửa, còn một mình đi vào của hàng bán cho chị XXX sợi dây chuyền trên được số tiền 54.000.000 đồng. Sau đó, X và chị X đi về nhà. Tại đây, X đưa cho chị X số tiền 42.000.000 đồng nói tiền chi tiêu cho gia đình, số tiền còn lại X đã chi tiêu cá nhân hết.
Đến ngày 17/7/2023, chị XXXX đến Cơ quan CSĐT – Công an quận BĐ để trình bày lời khai về sự việc.
* Vật chứng thu giữ:
- 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Sh Mode màu đen bạc, BKS: 29G1- 958.xx.
- 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu ghi xám, BKS: 29H2 - 463.xx khi kiểm tra hành chính.
- 01 chiếc điện thoại đã qua sử dụng nhãn hiệu Iphone XSMax màu vàng.
- 01 phiếu bán hàng kiêm bảo hành số AA0497xx ngày 17/7/2023 của chiếc máy trên.
- 01 đôi dép lê có ghi chữ TOMMY-HILFIGER, đế dép màu trắng, quai dép có gạch màu đỏ trắng ở giữa.
- 01 chiếc quần bò dài màu xanh; 01 chiếc áo phông cộc tay, loại áo không cổ, màu xanh có dòng chữ adidas, đều đã qua sử dụng.
* Vật chứng không thu hồi được:
- 1 sợi dây chuyền vàng ta, loại vàng 9999, dài khoảng 79cm, trọng lượng 1 cây, các điểm nối được thiết kế hình dấu ngã, đã qua sử dụng.
- 01 sợi dây chuyền vàng loại vàng 18K, trọng lượng 4,717 chỉ, đã qua sử dụng. Tại cơ quan điều tra, lời khai nhận tội của XXX phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan sơ đồ hiện trường, biên bản dẫn giải, vật chứng thu giữ được và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
Tại Kết luận định giá tài sản số 100 ngày 05/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân quận BĐ kết luận“01 sợi dây chuyền vàng ta dài khoảng 79cm, trọng lượng 1 cây, các điểm nối hình dấu ngã, đã qua sử dụng, có giá trị 56.400.000 đồng”, bị chiếm đoạt ngày 16/7/2023.
Tại Bản kết luận định giá số 158 ngày 04/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân quận Hoàn Kiếm, kết luận: “01(một) dây chuyền vàng 18K, trọng lượng 4,717 chỉ, cũ và đã qua sử dụng, có giá trị 24.700.000 đồng”, bị chiếm đoạt ngày 23/6/2023 Tổng trị giá tài sản là 81.300.000 đồng Cáo trạng số 213/CT-VKS ngày 27 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận BĐ, truy tố bị cáo XXX về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm c, d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Kiểm sát viên - Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa phát biểu quan điểm vụ án và đưa ra những chứng cứ, lý lẽ luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo XXX về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm c, d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Đề nghị về hình phạt đối với bị cáo XXX: Áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 171; Điều 38; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án từ 05 năm tù đến 06 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại không yêu cầu cầu bồi thường gì về dân sự. Bà XXX đã tự nguyện rút đơn đề nghị yêu cầu trách nhiệm dân sự nên không xét.
Đối với sợi dây chuyền vàng ta, loại vàng 9999, dài khoảng 79cm, trọng lượng 1 cây, các điểm nối được thiết kế hình dấu ngã và sợi dây chuyền vàng loại vàng 18K, trọng lượng 4,717 chỉ có tổng trị giá 81.100.000 đồng. Gia đình X đã tự nguyện khắc phục cho chị XXXX và chị XXX, sau khi nhận lại tài sản chị X, chị X không có yêu cầu bồi thường gì khác về dân sự.
Đối với vòng đeo cổ ổn định huyết áp bằng kim loại màu vàng, có gắn đá nhiều màu, tài sản chưa bị chiếm đoạt và bà XXX không có yêu cầu bồi thường về dân sự.
Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Sh Mode màu đen bạc, BKS: 29G1-958.xx, đã qua sử dụng. Qua xác minh là phương tiện bị cáo dùng đi thực hiện hành vi phạm tội đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
Đối với 01 chiếc điện thoại đã qua sử dụng nhãn hiệu Iphone XSMax màu vàng kèm theo 01 phiếu bán hàng kiêm bảo hành số AA0497xx ngày 17/7/2023 của chiếc máy trên là tài sản dùng tiền do phạm tội để mua đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
Đối với đồ dùng cá nhân của bị cáo: 01 đôi dép lê có ghi chữ TOMMY- HILFIGER, đế dép màu trắng, quai dép có gạch màu đỏ trắng ở giữa; 01 chiếc quần bò dài màu xanh; 01 chiếc áo phông cộc tay, loại áo không cổ, màu xanh có dòng chữ adidas, đều đã qua sử dụng. Đề nghị tịch thu tiêu hủy.
Vật chứng của vụ án đã thu giữ là 09 đoạn video camera ghi lại hình ảnh tại các tuyến phố Đê La Thành, Ngọc Khánh, Tây Tựu, Hàng Mã, Nhân Hoà liên quan đến hành vi cướp giật tài sản của bị cáo được chuyển làm tài liệu trong hồ sơ vụ án.
Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu ghi xám, BKS: 29H2 - 463.xx khi kiểm tra hành chính. Quá trình xác minh chiếc xe máy trên thuộc sở hữu của bà XXXX, sinh năm 19xx; HKTT: xxx – Hxx Tân Mai, quận Hoàng Mai, thành phố Hoàng Mai; Nơi cư trú: Số x ngõ x Đội Nhân, phường VP, quận BĐ, thành phố Hà Nội - là vợ của bị cáo X. Việc bị cáo X sử dụng chiếc xe trên thực hiện hành vi phạm tội chị X không biết. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận BĐ đã trao trả chiếc xe máy trên cho chị X.
Đối với XXX chủ cửa hàng vàng Kiên Thơm tại số xxx, TDP Thượng x, phường Tây Tựu, Bắc Từ Liêm, Hà Nội: Các tài liệu điều tra đã thu thập được không có căn cứ xác định X biết rõ nguồn gốc của 02 sợi dây chuyển vàng mà bị cáo X mang đến bán là tài sản do phạm tội mà có, nên không có căn cứ xác định XXX phạm tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Do vậy, không đề cập xử lý.
Đối với XXXX (là vợ của X): Quá trình điều tra xác định: Sau khi cướp giật được 02 sợi dây chuyền vàng ngày 23/6/2023 và ngày 16/7/2023, bị cáo X mang về nhà đều nói với X là được người khác trả nợ. Do X gặng hỏi nhiều lần thì bị cáo X quát nạt và nói dây chuyền là do bị cáo cướp được của người khác. X không biết rõ 02 sợi dây chuyền trên do bị cáo cướp giật được mà có. Khi bị cáo rủ X đi bán dây chuyền, X đã không đồng ý nhưng do bị cáo ép buộc nên chị X đi cùng. Mọi giao dịch mua bán 02 sợi dây chuyển vàng do bị cáo thực hiện, chị X không biết và không tham gia. Do vậy, không có căn cứ cứ xác định X đồng phạm với bị cáo về hành vi Cướp giật tài sản hoặc phạm vào tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội, bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố không có tranh luận, bào chữa gì. Nội dung lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt vì bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình, sớm trở về với vợ và 02 con nhỏ.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hành vi, quyết định khởi tố của Cơ quan điều tra Công an quận BĐ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận BĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngày 29 tháng 8 năm 2025 và ngày 03 tháng 10 năm Cơ quan CSĐT – Công an quận BĐ ra quyết định nhập vụ án hình sự số 03, và điều tra theo quy định pháp luật.
Bị cáo, các bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[2] Về hành vi bị truy tố:
Tại phiên toà hôm nay lời khai bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của các bị hại; phù hợp với vật chứng đã thu giữ trong vụ án; Kết luận định giá tài sản, kết hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ kết luận tội bị cáo XXX có hành vi “cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự. Cụ thể XXX đã thực hiện 03 vụ cướp giật tài sản: Vụ thứ nhất: Khoảng 08h30’ ngày 15/6/2023 bị cáo đã cướp giật 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng (là loại vòng đeo cổ ổn định huyết áp, có gắn đá nhiều màu) của bà XXX; Vụ thứ hai: Khoảng 14h30’ ngày 23/6/2023 bị cáo cướp giật sợi dây chuyền màu vàng trên của chị XXX; Vụ thứ ba: Khoảng 14h00’ ngày 16/7/2023 bị cáo cướp giật một sợi dây chuyền màu vàng của chị XXXX. Tổng trị giá tài sản bị cáo chiếm đoạt do 3 lần cướp giật tài sản là 81.300.000 đồng.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội và trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân là một trong những khách thể quan trọng được luật hình sự bảo vệ.
[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, là đối tượng có nhân thân xấu, bị cáo có không có tiền án, nhân thân đã có 03 tiền án đã xóa án tích, bị cáo có hành vi phạm tội nhiều lần và dùng phương tiện nguy hiểm để phạm tội, xét thấy cần xử bị cáo mức hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục cải tạo bị cáo thành công dân chấp hành pháp luật, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa chung tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, gia đình bị cáo đã chủ động bồi thường thiệt hại cho các bị hại nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Bị cáo phạm tội ba lần liên tiếp nên căn cứ áp dụng điểm g, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Từ những phân tích trên HĐXX xác định Viện kiểm sát nhân dân quận BĐ truy tố bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” là có căn cứ theo điểm c; d khoản 2 điều Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Đối với tội phạm xâm phạm về tài sản, ngoài hình phạt chính, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. HĐXX xét thấy bị cáo XXX là đối tượng không có việc làm, không có thu nhập ổn định, không có tài sản; nuôi 02 con nhỏ nên không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[4] Về xử lý vật chứng:
Đối với những vật chứng cơ quan điều tra đã xử lý trong qúa trình điều tra là có căn cứ; đúng quy định pháp luật nên HĐXX không xem xét:
Đối với vật chứng không thu giữ được, gia đình bị cáo đã tự nguyện khắc phục cho bị hại, các bị hại không có yêu cầu bồi thường gì khác, nên không xét.
Vật chứng của vụ án đã thu giữ là 09 đoạn video camera ghi lại hình ảnh tại các tuyến phố Đê La Thành, Ngọc Khánh, Tây Tựu, Hàng Mã, Nhân Hoà liên quan đến hành vi cướp giật tài sản của bị cáo được chuyển làm tài liệu trong hồ sơ vụ án.
Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Sh Mode màu đen bạc, BKS: 29G1-958.xx, đã qua sử dụng. Qua xác minh là phương tiện bị cáo dùng đi thực hiện hành vi phạm tội đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
Đối với 01 chiếc điện thoại đã qua sử dụng nhãn hiệu Iphone XSMax màu vàng; 01 phiếu bán hàng kiêm bảo hành số AA0497xx ngày 17/7/2023 của chiếc máy trên là tài sản dùng tiền phạm tội mà có đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà nước;
Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu ghi xám, BKS: 29H2 - 463.xx Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trao trả cho chị X, nên được chấp nhận.
Đối với 01 đôi dép lê có ghi chữ TOMMY-HILFIGER, đế dép màu trắng, quai dép có gạch màu đỏ trắng ở giữa; 01 chiếc quần bò dài màu xanh; 01 chiếc áo phông cộc tay, loại áo không cổ, màu xanh có dòng chữ adidas, đều đã qua sử dụng là tài sản cá nhân của bị cáo X, đề nghị tịch thu tiêu hủy.
[5] Về trách nhiệm dân sự; XXXX; XXX; XXX đã nhận bồi thường từ gia đình bị cáo và không yêu cầu trách nhiệm dân sự.
[6] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c, d khoản 2, khoản 5 Điều 171; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Căn cứ vào các điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Xử phạt: Bị cáo XXX 06 (sáu) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính ngày 19 tháng 7 năm 2023.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Đối với vật chứng không thu giữ được, gia đình bị cáo đã tự nguyện khắc phục cho bị hại, các bị hại không có yêu cầu bồi thường gì khác, nên không xét.
Vật chứng của vụ án đã thu giữ là 09 đoạn video camera ghi lại hình ảnh bị cáo phạm tội chuyển làm tài liệu trong hồ sơ vụ án.
Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Sh Mode màu đen bạc, BKS: 29G1-958.xx, đã qua sử dụng. Qua xác minh là phương tiện bị cáo dùng đi thực hiện hành vi phạm tội tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
Đối với 01 chiếc điện thoại đã qua sử dụng nhãn hiệu Iphone XSMax màu vàng; 01 phiếu bán hàng kiêm bảo hành của chiếc máy trên là tài sản do phạm tội mà có tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu ghi xám, BKS: 29H2 - 463.xx Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trao trả cho chị X, nên không xem xét.
Đối với 01 đôi dép lê có ghi chữ TOMMY-HILFIGER, đế dép màu trắng, quai dép có gạch màu đỏ trắng ở giữa; 01 chiếc quần bò dài màu xanh; 01 chiếc áo phông cộc tay, loại áo không cổ, màu xanh có dòng chữ adidas, đều đã qua sử dụng là tài sản cá nhân của bị cáo X, tịch thu tiêu hủy theo quy định pháp luật.
- Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí số: 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015; điểm a, khoản 1 Điều 23, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;
Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày 12 tháng 3 năm 2024; Các bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 33/2024/HS-ST
Số hiệu: | 33/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về