Bản án về tội cướp giật tài sản số 325/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 325/2023/HS-ST NGÀY 21/12/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân thành phố T, tỉnh D, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 363/2023/TLST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 326/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

TTS, sinh năm 1987 tại A; thường trú: Ấp TT, xã NH, huyện AP, AG; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông TVY, sinh năm 1967 và bà LTT, sinh năm 1966, vợ NTTH, sinh năm 1989, có 01 con sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân:

+ Bản án số 110/2008/HSST ngày 11/4/2008 bị Tòa án nhân dân huyện (nay là thành phố) T, tỉnh D xử phạt 36 tháng tù cho hưởng án treo về tội Cướp tài sản.

+ Ngày 16/5/2017 bị Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) T ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 15 tháng, chấp hành xong ngày 26/4/2018.

+ Bản án số 192/2018/HSST ngày 11/12/2018 bị Tòa án nhân dân huyện (nay là thành phố) Tân Uyên, tỉnh D xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Cướp giật tài sản chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/8/2020.

+ Bản án 71/2023/HSST ngày 13/9/2023 bị Tòa án huyện A, tỉnh A xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản.

bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/02/2023, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: NHP, sinh ngày 08/02/2017; thường trú: Ấp CT, xã TGT, huyện NH, tỉnh CM, tạm trú: 170 khu phố ĐB, phường BH, thành phố TA, tỉnh BD Người đại diện hợp pháp: Bà TTH, sinh năm 1985; thường trú: 170 khu phố ĐB, phường BH, thành phố TA, tỉnh BD vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông TQT, sinh năm 1983; thường trú: Số 3 đường T4B, phường TT, TP, Thành phố H, vắng mặt.

+ Bà TTH, sinh năm 1985; thường trú: 170 khu phố ĐB, phường BH, thành phố TA, tỉnh BD, vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ LTN vắng mặt.

+ TXT, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 05 giờ 30 phút ngày 25/02/2023, đối tượng T (chưa xác định được lai lịch, địa chỉ) là bạn bè quen biết ngoài xã hội với TTS rủ Sang đi cướp giật tài sản của người khác bán lấy tiền tiêu xài thì S đồng ý. T điều khiển xe mô tô kiểu dáng Winner màu xanh gắn biển số 59V1-xxxxx chở S lưu thông trên các tuyến đường tìm tài sản sơ hở để cướp giật. Đến khoảng 06 giờ 15 phút cùng ngày, khi đang lưu thông ngang qua địa chỉ T19/2 khu phố Bình Thuận 2, phường Thuận Giao, thành phố T, D thì nhìn thấy bà TTH đang bán thức ăn trên vỉa hè. Con trai bà H là cháu NHP, sinh ngày 08/02/2017 đang ngồi sử dụng điện thoại di động hiệu OPPO A54 màu xám-xanh bên cạnh bà H. T điều khiển xe mô tô đến dừng gần chỗ cháu P đang ngồi khoảng 02m, S xuống xe đi bộ đến dùng tay phải giật lấy chiếc điện thoại di động hiệu OPPO A54 trên tay cháu P rồi nhanh chóng bỏ chạy và ngồi lên xe của T. T chưa kịp điều khiển xe đi thì bị bà H đuổi theo, nắm cổ áo của S làm S cùng T và xe ngã xuống đường. Bà H tri hô rồi cùng người dân bắt giữ S giao cho Công an phường Thuận Giao còn T điều khiển xe mô tô bỏ chạy trốn thoát.

Tang vật, tài sản tạm giữ:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO A54 màu xám xanh đã bể màn hình.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu đen (của TTS);

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Vsmart màu xanh đen (của đối tượng tên T vứt lại hiện trường);

- 01 biển số xe 59V1-xxxxx.

Bản kết luận định giá tài sản ngày 03/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố T xác định: Điện thoại di động OPPO A54, màu xanh xám có giá là 1.700.000 đồng.

Cáo trạng số 362/CT-VKSTA ngày 30 tháng 11 năm 2023 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh D truy tố bị cáo TTS về “Tội cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh như cáo trạng đã truy tố, phân tích tính chất, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 171, Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo TTS mức hình phạt từ 04 (bốn) năm đến 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, tổng hợp hình phạt 01 năm tù của bản án số 71/2023/HSST của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh A đề nghị buộc bị cáo phải chấp hành chung hình phạt của 02 bản án là từ 05 (năm) năm tù đến 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO A54 màu xám xanh đã bể màn hình là tài sản của bà TTH nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã trả lại cho bà H là có căn cứ. Bà TTH là đại diện theo pháp luật của bị hại NHP không có yêu cầu bồi thường gì khác nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu đen thu giữ của bị cáo TTH không sử dụng vào mục đích phạm tội nên đề nghị trả lại cho bị cáo.

Đối với biển số 59V1-xxxxx đối tượng Thắng làm rơi tại hiện trường trong quá trình tẩu thoát. Qua xác minh, biển số xe 59V1-xxxxx được cấp cho xe mô tô nhãn hiệu Honda PCX màu nâu đen có số khung: JF28E2106619, số khung: RLHJF300XBY004694 cho ông TQT. Qua làm việc, ông T cho biết xe mô tô nhãn hiệu Honda PCX màu nâu đen, biển số 59V1-xxxxx của ông bị mất trộm vào năm 2016 tại phường 15, Quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh và không đến công an trình báo sự việc. Ông T không yêu cầu nhận lại biển số xe nêu trên và không có yêu cầu gì khác. Do không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy đối với biển số 59V1-xxxxx.

Đối với điện thoại di động Vsmart màu xanh đen, bị cáo S khai là tài sản của đối tượng T bị rơi trong lúc bỏ chạy bị té ngã. Do đó, cần giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

Đối với đối tượng tên T cùng với TTS thực hiện hành vi phạm tội đã bỏ trốn, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được lai lịch, địa chỉ của T nên sẽ tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau.

- Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ý kiến người đại diện hợp pháp của bị hại trong quá trình điều tra: Đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì khác và đề nghị xử lý hành vi của bị cáo theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Quang T trong quá trình điều tra: Không yêu cầu gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị cáo TTS khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố bị cáo trước Tòa. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo, những người tham gia tố tụng khác tại Cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 06 giờ 15 phút ngày 25/02/2023, tại trước địa chỉ T19/2 khu phố Bình Thuận 2, phường Thuận Giao, thành phố T, D, bị cáo TTS đã có hành vi dùng tay cướp giật tài sản là 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO A54, màu xám xanh do cháu NHP, sinh ngày 08/02/2017 trị giá 1.700.000 đồng, tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội bị hại NHP chỉ mới 06 tuổi 0 tháng 17 ngày, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi nên đã cố ý phạm tội. Do vậy, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm để cải tạo, giáo dục bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4]. Về nhân thân, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu - Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Mức đề nghị hình phạt của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đối với bị cáo TTS là phù hợp nên chấp nhận.

Xét bị cáo TTS bị Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh A xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 71/2023/HSST ngày 13/9/2023 do đó Hội đồng xét xử sẽ áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung của hai bản án.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

[6]. Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu đen thu giữ của bị cáo TTS không sử dụng vào mục đích phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Đối với biển số 59V1-xxxxx đối tượng Thắng làm rơi tại hiện trường trong quá trình tẩu thoát. Qua xác minh, biển số xe 59V1-xxxxx được cấp cho xe mô tô nhãn hiệu Honda PCX màu nâu đen có số khung: JF28E2106619, số khung: RLHJF300XBY004694 cho ông Trần Quang T. Qua làm việc, ông T cho biết xe mô tô nhãn hiệu Honda PCX màu nâu đen, biển số 59V1-xxxxx của ông bị mất trộm vào năm 2016 tại phường 15, Quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh và không đến công an trình báo sự việc. Ông T không yêu cầu nhận lại biển số xe nêu trên và không có yêu cầu gì khác. Do không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy đối với biển số 59V1-xxxxx.

Đối với điện thoại di động Vsmart màu xanh đen, bị cáo S khai là tài sản của đối tượng T bị rơi trong lúc bỏ chạy bị té ngã. Do đó, cần giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

Đối với đối tượng tên T cùng với TTS thực hiện hành vi phạm tội đã bỏ trốn, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được lai lịch, địa chỉ của T nên sẽ tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm g khoản 2 Điều 171; Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Điều 106 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo TTS phạm tội “Cướp giật tài sản”. Xử phạt bị cáo TTS 04 (bốn) năm tù.

Tổng hợp hình phạt 01 (một) năm tù của bản án số 71/2023/HSST ngày 13/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh A. Buộc bị cáo phải chấp hành chung hình phạt của 02 bản án là 05 (năm) tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/02/2023.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy biển số 59V1-xxxxx.

- Trả cho bị cáo TTS 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu đen.

- Giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý đối với 01 điện thoại di động Vsmart màu xanh đen.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/11/2023).

3. Về án phí: Buộc bị cáo TTS phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án. Người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 325/2023/HS-ST

Số hiệu:325/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về