TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 317/2020/HS-ST NGÀY 13/11/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 13 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Thủ Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 281/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 342/2020/QĐXXST–HS ngày 30 tháng 10 năm 2020 đối với các bị cáo:
1. Bùi Quốc T, sinh ngày: 31/7/2004 tại T phố Hồ Chí Minh, tính đến ngày phạm tội bị cáo 15 tuổi 7 tháng 13 ngày; nơi cư trú: 502 Quốc lộ 1A, khu phố 1, phường B, quận D, T phố M; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Anh T và bà: Bùi Thị D; chưa có vợ con; tiền án: không có, tiền sự: không có; bị bắt, tạm giam ngày 14/3/2020 đến ngày 23/3/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt)
2. Nguyễn Trường G, sinh ngày: 10/9/2004 tại tỉnh Sóc Trăng, tính đến ngày phạm tội bị cáo 15 tuổi 6 tháng 03 ngày; thường trú: Ấp Tân Định, xã T, huyện T, tỉnh T; nơi cư trú: không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn N và bà: Cao Thị T; chưa có vợ con; tiền án: không có, tiền sự: không có; bị bắt, tạm giam ngày 14/3/2020 đến ngày 23/3/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Ngày 03/7/2020, bị Công an quận Thủ Đức bắt trong vụ án khác. (có mặt)
- Bị hại: Bà Bùi Thị Huyền T, sinh năm: 1997.
Nơi cư trú: số ** đường c, khu phố 5, phường T, quận D, T phố M. (vắng mặt)
- Người đại diện hợp pháp của các bị cáo:
1. Ông Trần Anh T, sinh năm: 1967 và bà Bùi Thị D, sinh năm: 1972 – Là cha mẹ của bị cáo Bùi Quốc T.
Nơi cư trú: số ** Quốc lộ 1A, khu phố 1, phường B, quận D, T phố M. (có mặt)
2. Ông Nguyễn Văn N, sinh năm: 1979 và bà Cao Thị T, sinh năm: 1985 – Là cha mẹ của bị cáo Nguyễn Trường G. (có mặt) Nơi cư trú: Ấp Tân Định, xã T, huyện T, tỉnh T.
- Người làm chứng:
1. Vũ Quỳnh D, sinh năm: 2006.
Có người đại diện hợp pháp là bà Hoàng Thị V.
Nơi cư trú: số ** đường P, phường B, quận D, T phố M. (vắng mặt)
2. Trần Thanh Tr, sinh năm: 2006.
Có người đại diện hợp pháp là ông Trần Văn T.
Nơi cư trú: số ** đương T, phường P, quận D, T phố M. (vắng mặt)
3. Lê Thanh D, sinh năm: 2002.
Nơi cư trú: 529/xx đường T, phường P, quận D, T phố M. (vắng mặt)
4. Bà Lê Thảo D, sinh năm: 1997.
Nơi cư trú: ** đường a, khu phố 2, phường T, quận D, T phố M. (vắng mặt)
- Người bào chữa:
1. Luật sư Huỳnh Trung H (Văn phòng luật sư Nhật Bình) thuộc Đoàn Luật sư T phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Bùi Quốc T. (có mặt)
2. Luật sư Nguyễn Hữu T (Văn phòng luật sư T và Cộng sự) thuộc Đoàn Luật sư T phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trường G. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội DU vụ án được tóm tắt như sau:
[1]. Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 12/03/2020, Bùi Quốc T điều khiển xe mô tô Honda Vision màu nâu biển số 59X2-259.26 đến uống nước tại quán cà phê Anh Em Quán thuộc t phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương thì gặp Vũ Quỳnh Dên. Tại đây, T rủ Dên đi cướp giật tài sản nhưng Dên không đồng ý. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, T chạy xe đến trước cổng bệnh viện quận Thủ Đức thuộc phường Tam Phú, quận Thủ Đức gặp Đoàn Thanh Phong và Trịnh Nguyễn Hoàng Kim, T tiếp tục rủ Phong, Kim đi giật điện thoại, Phong, Kim không đồng ý. T nhờ Kim dẫn đi tìm Nguyễn Trường G, T điều khiển xe chở Kim đến khu vực Bến Đò thuộc phường Linh Đông, quận Thủ Đức thì gặp G. Tại đây, T lấy lý do nhờ G gặp Dên đòi tiền giùm, G đồng ý. T chở G, Kim để đưa Kim về nhà trên đường Kha Vạn Cân thuộc phường Linh Đông, quận Thủ Đức. Trên đường đi, T rủ G đi vòng vòng tìm người có đồ để giật, G đồng ý. T điều khiển xe mô tô biển số 59X2- 259.26 chở G ngồi sau từ khu vực bệnh viện quận Thủ Đức ra đường Phạm Văn Đồng, phường Linh Tây, quận Thủ Đức để tìm người có tài sản cướp giật. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 13/3/2020, khi đến trước chùa Ni Viện Long Nhiễu trên đường Phạm Văn Đồng, phường Linh Tây, quận Thủ Đức thì T và G phát hiện bà Lê Thảo DU điều khiển xe mô tô Sirius biển số 77G1-394.11 chở bà Bùi Thị Huyền T đeo túi xách bên vai phải (bên trong túi xách có 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus, 01 tai nghe Airpod 2, 01 giấy chứng minh nhân dân, 02 giấy phép lái xe, 02 thẻ ATM, 01 thẻ VinGroup và 440.000 đồng để trong ví da màu nâu) nên tăng ga áp sát phía bên phải xe bà DU, G ngồi sau dùng tay trái giật lấy túi xách của bà T.
Sau đó, T nhanh chóng chạy thoát về quán cà phê Anh Em Quán thuộc t phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương gặp Dên. T và G mỗi người chia nhau được 200.000 đồng, còn 40.000 đồng T đổ xăng xe. G lấy cái ví da, còn T đưa 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus, 01 tai nghe Airpod 2, 01 giấy chứng minh nhân dân, 02 giấy phép lái xe, 02 thẻ ATM, 01 thẻ VinGroup cho Dên giữ giùm, rồi T điều khiển xe mô tô biển số 59X2-259.26 chở G về. Lúc này, Trần Thanh Trọng đến quán cà phê Anh Em Quán, thấy Dên có điện thoại Iphone 6 Plus nên hỏi Dên thì Dên nói điện thoại do T và G đi cướp giật đưa Dên giữ giùm, Trọng nhìn thấy hình trong điện thoại là chị họ của Lê Thanh D. Sau đó, Trọng điện thoại cho D và nói sự việc trên, cả hai khuyên Dên trả lại đồ. Khoảng 19 giờ 00 cùng ngày, Trọng và D điện thoại cho bà T hẹn đến cây xăng số 3, địa chỉ số 777 Kha Vạn Cân, khu phố 2, phường Linh Tây, quận Thủ Đức để trả lại tài sản bị mất. Bà T đến Công an trình báo sự việc và đến cây xăng số 3 gặp Trọng và D nhận lại tài sản. Khi đang giao trả tài sản cho bà T thì D, Trọng bị Công an mời về làm việc. Sau đó, Cơ quan điều tra Công an quận Thủ Đức ra lệnh bắt Bùi Quốc T, Nguyễn Trường G.
Tại Cơ quan điều tra, Bùi Quốc T và Nguyễn Trường G khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Kết luận định giá tài sản số 903/CV-HĐĐGTSTTTHS ngày 14/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận Thủ Đức kết luận: Điện thoại di động Iphone 6 Plus màu trắng trên trị giá 3.000.000 đồng; tai nghe Wreless Apple Airpod 2 trị giá 2.500.000 đồng; ví da màu nâu trên trị giá 90.000 đồng; túi vải màu trắng có in chữ Special trị giá 15.000 đồng. Tổng trị giá tài sản là 5.605.000 đồng.
Vật chứng vụ án:
- Một xe Honda Vison, màu đỏ, biển số 59X2-259.26 do bà Bùi Thị DU là mẹ của Bùi Quốc T đứng tên giấy đăng ký xe. Bà DU khai nhận khoảng 14 giờ ngày 12/3/2020, T sử dụng xe mô tô trên đi mua bánh tráng, đến 22 giờ ngày 13/3/2020 T về nhà. Sau đó, Công an mời T làm việc thì bà DU mới biết T sử dụng xe mô tô trên đi cướp giật tài sản. Ngày 19/3/2020, Cơ quan điều tra trả cho bà DU là chủ sở hữu.
- 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu trắng; 01 ví da màu nâu; 01 túi vải màu trắng có in chữ Special; 01 giấy chứng minh nhân dân; 02 giấy phép lái xe; 01 thẻ ATM ngân hàng Vietcombank; 01 thẻ ATM ngân hàng VP Bank; 01 thẻ Vingoup mang tên Bùi Thị T. Cơ quan điều tra trả cho chị Bùi Thị Huyền T là chủ sở hữu.
- 01 tai nghe Wreless Apple Airpod 2 (chưa thu hồi).
- Số tiền 440.000 đồng.
Tại Bản Cáo trạng số 298/CT-VKS ngày 12/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố các bị cáo Bùi Quốc T và Nguyễn Trường G về tội "Cướp giật tài sản" theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.
[2]. Tại phiên tòa, các bị cáo Bùi Quốc T và Nguyễn Trường G khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội DU Cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo Bùi Quốc T trình bày: Bị cáo còn nhỏ, tH hiểu biết, gia đình đã bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo T.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Trường G trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo G.
Luật sư Huỳnh Trung H bào chữa cho bị cáo Bùi Quốc T trình bày: Bị cáo T đã khai nhận tội như nội DU cáo trạng truy tố. Bị cáo phạm tội khi nhận thức còn hạn chế, đã t khẩn nhận tội, cha mẹ bị cáo đã đứng ra bồi thường cho bị hại và bị cáo được bãi nại; trong thời gian tại ngoại không có vi phạm pháp luật. Bị cáo đi làm để phụ giúp gia đình, cha mắc căn bệnh về thần kinh, bị cáo cũng có N vọng được tiếp tục đi học, do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo để có cơ hội sửa chữa lỗi lầm.
Luật sư Nguyễn Hữu T bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trường G trình bày: Xét về vai trò thì bị cáo T là người rủ rê bị cáo G phạm tội. Bị cáo G tH sự quan T của cha mẹ nên nhận thức chưa đúng, tài sản bị chiếm đoạt có giá trị không lớn, gia đình bị cáo có N vọng cùng gia đình bị cáo T bồi thường cho bị hại. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo G là không tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức giữ nguyên quyết định truy tố các các bị cáo Bùi Quốc T và Nguyễn Trường G về tội "Cướp giật tài sản" theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt: bị cáo T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; bị cáo G từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội DU vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo Bùi Quốc T, Nguyễn Trường G phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và vụ án còn được chứng minh qua các tài liệu, chứng cứ khác như biên bản bắt người, biên bản nhận dạng, bản kết luận định giá, bản thu giữ vật chứng và các biên bản hoạt động điều tra khác… Từ đó có đủ căn cứ xác định: Vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 13/3/2020, bị cáo Bùi Quốc T điều khiển xe mô tô biển số 59X2-259.26 chở bị cáo Nguyễn Trường G đến trước chùa Ni Viện Long Nhiễu, đường Phạm Văn Đồng, phường Linh Tây, quận Thủ Đức, T phố Hồ Chí Minh thì phát hiện bà Lê Thảo DU điều khiển xe mô tô biển số 77G1-394.11 chở bà Bùi Thị Huyền T đang lưu thông cùng chiều. Bà T đeo túi xách bên vai phải, bị cáo T liền áp sát bên phải xe của bà DU để bị cáo G ngồi sau giật túi xách. Sau khi giật được túi, cả hai nhanh chóng tẩu thoát về một quán cà phê tại t phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Tại đây, hai bị cáo chia nhau số tiền 440.000 đồng trong túi xách và đưa cho Vũ Quỳnh Dên giữ số tài sản của bà T gồm: 01 điện thoại di động, 01 tai nghe, giấy chứng minh nhân dân, 02 bằng lái xe, 02 thẻ ATM, 01 thẻ Vingroup. Sau đó, Trần Thanh Trọng đã cùng với Lê Thanh D đem trả lại tài sản cho bà T, đúng như nội DU bản cáo trạng đã nêu.
Với các tình tiết của vụ án đã được chứng minh tại phiên tòa, xét có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Bùi Quốc T và Nguyễn Trường G phạm tội "Cướp giật tài sản" theo Điều 171 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì động cơ vụ lợi, các bị cáo đã đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo sử dụng phương tiện là xe mô tô để thực hiện hành vi cướp giật tài sản của bị hại cũng đang ngồi trên xe mô tô là thuộc trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm, có thể gây hại đến sức khỏe, tính mạng của bị hại và nhiều người đi đường khác. Do đó, cần áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự xử phạt các bị cáo với mức án nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.
Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo có thái độ t khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo T đã bồi thường cho bị hại là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng xem xét các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi, bị cáo T 15 tuổi 7 tháng 13 ngày, bị cáo G 15 tuổi 6 tháng 03 ngày, thuộc trường hợp người chưa t niên phạm tội được quy định tại Điều 91 Bộ luật Hình sự, nhận thức còn hạn chế, các bị cáo được bị hại bãi nại. Bị cáo T trong thời gian tại ngoại không vi phạm pháp luật, có nơi cư trú ổn định, rõ ràng, gia đình bị cáo đã bồi thường cho bị hại nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần phải bắt bị cáo T chấp hành hình phạt tù cũng đủ tác dụng để bị cáo cải tạo, giáo dục. Đối với bị cáo G, Hội đồng xét xử cũng xem xét đến đề nghị của Luật sư về việc cho bị cáo hưởng án treo, tuy nhiên trong thời gian được cho tại ngoại bị cáo đã bị bắt, điều tra về một hành vi phạm tội khác, không có căn cứ để được hưởng án treo do đó xét thấy cần cách ly bị cáo G ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm mục đích cải tạo, giáo dục bị cáo.
Đối với Vũ Quỳnh Dên, sinh năm: 2006 có hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, Cơ quan điều tra đã giao cho Công an phường Tam Bình lập hồ sơ xử lý hành chính.
Đối với Lê Thanh D và Trần Thanh Trọng biết số tài sản Vũ Quỳnh Dên đang giữ là do cướp giật nhưng D và Trọng đã mang tài sản trả lại cho cho bị hại nên hành vi của D và Trọng không cấu t tội phạm.
[3]. Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:
Bà Bùi Thị Huyền T đã nhận lại tài sản và nhận bồi thường đầy đủ, không có ý kiến, yêu cầu gì thêm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Bùi Quốc T, Nguyễn Trường G phạm tội "Cướp giật tài sản".
- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 65; Điều 91 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Bùi Quốc T 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Bùi Quốc T cho Ủy ban nhân dân phường Tam Bình, quận Thủ Đức, T phố Hồ Chí Minh để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này. Trường hợp người được hưởng án treo thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt của bản án này và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự.
- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 91; Điều 101 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trường G 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/7/2020, được trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 14/3/2020 đến ngày 23/3/2020.
Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật
Bản án về tội cướp giật tài sản số 317/2020/HS-ST
Số hiệu: | 317/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về