Bản án về tội cướp giật tài sản số 29/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VL, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 29/2022/HS-ST NGÀY 15/09/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 9 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện VL, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2022/TLST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

NGUYỄN MINH K (tên gọi khác: không), sinh năm 1980 tại Bạc Liêu.

Nơi cư trú: Khóm 2, phường Láng Tròn, thị xã GR, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá (học vấn): không biết chữ (biết ký tên); dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tấn Ph, sinh năm 1949 (đã chết) và bà Ngô Thị Ngh, sinh năm 1950; có vợ tên: Huỳnh Phương T, sinh năm 1982 và 01 con; tiền án: (1) ngày 04/7/2013, bị Tòa án nhân dân thị xã TA, tỉnh Bình Dương xử phạt 04 năm tù về tội Cướp giật tài sản tại Bản án hình sự sơ thẩm số 219/2013/HS-ST, chấp hành xong ngày 23/8/2016, (2) ngày 15/9/2017, bị Tòa án nhân dân huyện HB, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội Cướp giật tài sản tại Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2017/HS-ST, chấp hành xong hình phạt ngày 13/5/2021, (3) ngày 06/6/2006, bị Tòa án nhân dân huyện ĐH, tỉnh Bạc liêu xử phạt 01 năm tù về tội Cướp giật tài sản tại Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2006/HS-ST, chấp hành xong hình phạt ngày 26/01/2007, (4) ngày 28/11/2007, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xử phạt 03 năm tù về tội Cướp giật tài sản tại Bản án hình sự phúc thẩm số 178/2007/HS-PT, chấp hành xong hình phạt ngày 08/3/2010; tiền sự: không; Tạm giam ngày 30/01/2022; hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà Tạm giữ Công an huyện VL, tỉnh Bạc Liêu (có mặt).

- Bị hại: Chị Đỗ Kim P, sinh năm 1973 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Ấp 1, thị trấn Gành Hào, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Trần Thị Lệ Kh, sinh năm 1974 (có mặt).

Nơi cư trú: Ấp Phước Thạnh 1, xã Long Thạnh, huyện VL, tỉnh Bạc Liêu.

2. Chị Huỳnh Phương T, sinh năm 1982 (có mặt).

Nơi cư trú: Khóm 2, phường Láng Tròn, thị xã GR, tỉnh Bạc Liêu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng hơn 07 giờ ngày 20/6/2021, Nguyễn Minh K điều khiển xe theo hướng Quốc lộ 1A đi thành phố BL, tỉnh Bạc Liêu. Đến khu vực cách Cầu Cái Tràm khoảng 50 mét, K nhìn thấy chị Đỗ Kim P đang điều khiển xe nhãn hiệu Honda, loại Airblade, màu đỏ, biển kiểm soát 94B1-170.90, trên ba ga xe của chị P để một túi xách nữ, bên trong có số tiền 11.300.000 đồng; một sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng, mặt hình bông mai bằng kim loại màu vàng; một tấm lắc bằng kim loại màu vàng; một giấy chứng minh Hội thẩm nhân dân tên Đỗ Kim P; một giấy phép lái xe mô tô hạng A1 mang tên Đỗ Kim P; một giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 94B1-170.90. Nguyễn Minh K điều khiển xe theo sau, khi qua cầu Cái Tràm khoảng 200 mét thuộc ấp Cái Tràm A1, xã Long Thạnh, huyện VL, tỉnh Bạc Liêu, K điều khiển xe áp sát phía bên phải xe của chị P, dùng tay trái giật lấy túi xách và nhanh chóng tăng ga bỏ chạy về hướng thành phố BL. Sau khi giật được túi xách, K để trên ba ga xe, chị P điều khiển xe đuổi theo. K thấy chị P sắp đuổi kịp nên đã ném túi xách xuống lề đường bên phải, mục đích để chị P không đuổi theo K. Tuy nhiên, chị P vẫn tiếp tục đuổi theo K đến đoạn gần ngã ba Huy Liệu thuộc ấp Phước Thạnh 1, xã Long Thạnh, huyện VL, tỉnh Bạc Liêu, chị P đuổi kịp và dùng chân đạp vào đuôi xe của K làm xe của K bị đảo, chị P điều khiển xe vượt lên và cúp đầu xe của K. Cả hai người đều bị ngã xe, chị P bị ngã xe văng vào phía lề lộ phía bên phải theo hướng cầu Cái Tràm về thành phố Bạc Liêu bị thương tích. Nguyễn Minh K bị ngã xe văng ra phía giữa lộ, bị rớt yên xe và giấy chứng nhận đăng ký xe biển kiểm soát 54N7-8222. Sau khi bị ngã, K bị thương tích ở tay, chân nhưng K đứng dậy và tiếp tục điều khiển xe chạy về hướng xã Vĩnh Hưng, huyện VL, tỉnh Bạc Liêu để tẩu thoát. Đến ngày 30/01/2022, K đến Cơ quan Công an đầu thú.

Công văn số 03 ngày 03/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện VL, tỉnh Bạc Liêu từ chối định giá đối với số tài sản mà Nguyễn Minh K cướp giật của chị Đỗ Kim P, gồm: 01 túi xách loại giả da, màu nâu đã qua sử dụng, kích thước 40cm x 35cm; 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng (vàng giả), trọng lượng 04 chỉ 01 phân 03 ly; 01 mặt dây chuyền hình bông mai bằng kim loại màu vàng (vàng giả), trọng lượng 02 chỉ 01 phân 01 ly; 01 lắc đeo tay, kiểu khoen lật bằng kim loại màu vàng (vàng giả), trọng lượng 08 chỉ 03 phân 02 ly, do: cung cấp không đầy đủ các thông tin có liên quan đến tài sản cần định giá, các chứng từ, giấy tờ có liên quan đến tài sản, tình trạng tài sản đã qua sử dụng, tài sản làm bằng kim loại màu vàng (vàng giả). Qua khảo sát giá thị trường, tại địa phương, không có thu mua các mặt hàng (tài sản) đã qua sử dụng nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 02 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện VL truy tố bị cáo Nguyễn Minh K về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh K phạm tội “Cướp giật tài sản”.

+ Áp dụng điểm d, i khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Minh K từ 05 năm đến 06 năm tù.

+ Về trách nhiệm dân sự: Đối với tài sản bị cướp giật đã thu hồi và trao trả cho bị hại xong, bị hại không có yêu cầu. Đối với thương tích và thiệt hại tài sản của bị hại trong quá trình truy đuổi bị cáo gây ra, bị hại yêu cầu giải quyết trong vụ án này. Cũng như người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Thị Lệ Kh yêu cầu bồi thường 1.800.000 đồng. Do chưa cung cấp đủ chứng từ, bị hại vắng mặt, nên đề nghị tách ra giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.

+ Về vật chứng: Trả lại 01 yêu xe máy, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang biển số kiểm soát 54N-8222, 01 xe gắn máy mang biển số kiểm soát 54N7-8222 (đã qua sử dụng) cho chị Huỳnh Phương T.

- Bị cáo Nguyễn Minh K đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố đối với bị cáo. Sau khi nghe Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện VL, tỉnh Bạc Liêu trình bày luận tội, bị cáo không có ý kiến tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị hại trình bày trong quá trình điều tra: Sáng ngày 20/6/2021, trong quá trình điều khiển xe hướng từ huyện HB về thành phố BL đến địa phận huyện VL trên Quốc lộ 1A, chị bị Nguyễn Minh K giật túi xách cùng những tài sản trong túi. Chị đã rượt đuổi kịp và cúp đầu xe mô tô của bị cáo, hậu quả xe của chị và xe của bị cáo đều ngã, nhưng bị cáo đã dựng xe mô tô lên và tiếp tục bỏ chạy, còn chị bị thương tích 69%. Hiện tại, các tài sản bị cướp giật chị đã thu hồi lại được và không có yêu cầu. Yêu cầu bị cáo bồi thường tổng thiệt hại theo bản kê với số tiền 107.050.000 đồng.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Huỳnh Phương T trình bày: Xe mô tô mang biển số kiểm soát 54N-8222 là của chị mua qua tay của người em, chưa sang tên. Đây là tài sản của chị, thường ngày chị và con dùng làm phương tiện đi làm thuê. Ngày bị cáo K mượn xe của chị nói đi uống cà phê, việc bị cáo K dùng để cướp giật tài sản của người khác chị không biết. Chị yêu cầu được nhận lại xe mô tô cùng giấy đăng ký xe để làm phương tiện mưu sinh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Thị Lệ Kh trình bày: Ngày 20/6/2021, khi chị đang ngồi bán thuốc lá cập Quốc lộ 1A, thuộc ấp Phước Thạnh 1, xã Long Thạnh, huyện VL, tỉnh Bạc Liêu thì có xe mô tô do chị Đỗ Kim P té ngã làm hư hỏng toàn bộ tủ đựng thuốc lá của chị. Chị mua tủ này với giá 1.800.000 đồng. Chị cũng không biết yêu cầu ai để bồi thường số tiền này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện VL, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện VL, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Minh K, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[1.2] Bị hại Đỗ Kim P có đơn xin xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị P, theo quy định tại khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Minh K tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của chính bị cáo trong giai đoạn điều tra; lời khai của bị cáo về thời gian, địa điểm, phương thức thực hiện hành vi phạm tội phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng; đồng thời phù hợp với các chứng cứ khác đã được thu thập trong giai đoạn điều tra và thẩm tra làm rõ tại phiên tòa như biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận định giá tài sản, trích xuất camera, … Do đó, đủ căn cứ chứng minh: Vào khoảng 08 giờ ngày 20/6/2021, trên Quốc lộ 1A thuộc ấp Phước Thạnh 1, xã Long Thạnh, huyện VL, tỉnh Bạc Liêu, bị cáo Nguyễn Minh K đã dùng xe mô tô, đang lưu thông trên đường Quốc lộ để tiếp cận, giật tài sản của chị Đỗ Kim P cũng đang điều khiển xe mô tô cùng chiều với bị cáo. Hậu quả, bị cáo đã chiếm đoạt được một túi xách của chị P, bên trong có số tiền 11.300.000 đồng; một sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng, mặt hình bông mai bằng kim loại màu vàng; một tấm lắc bằng kim loại màu vàng (đều là vàng giả); một giấy chứng minh Hội thẩm nhân dân tên Đỗ Kim P; một giấy phép lái xe mô tô hạng A1 mang tên Đỗ Kim P; một giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 94B1-170.90.

[2.2] Hội đồng xét xử xét thấy, bản thân bị cáo không có nghề nghiệp, nhưng lại hưởng thụ, ham muốn tiêu xài tài sản của người khác nên khi thấy có cơ hội, bị cáo cố ý thực hiện hành vi nhanh chóng để chiếm đoạt tài sản. Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đầy đủ năng lực để nhận biết việc chiếm đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật. Hành vi dùng thủ đoạn là xe mô tô đang lưu thông trên đường để giật tài sản của người khác là rất nguy hiểm, được xem là “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2.3 Ngoài ra, bị cáo Nguyễn Minh K có 04 tiền án cùng về tội “Cướp giật tài sản” thuộc loại tội rất nghiêm trọng, chưa được xóa án tích. Ngày 20/6/2021, bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi cướp giật tài sản vối lỗi cố ý, thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 53, điểm i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2.4] Từ phân tích trên, đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh, điều luật và đề xuất mức hình phạt nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.5] Tại Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

i) Tái phạm nguy hiểm.

…” [3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Mặc dù bị cáo có 04 tiền án về tội Cướp giật tài sản. Tuy nhiên, tiền án này đã được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt, nên không xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, theo quy định tại khoản 2 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Minh K đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội, bị cáo đầu thú, nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Chị Đỗ Kim P đã dùng xe mô tô của chị đang điều khiển để chặn đầu ngay tức khắc xe của bị cáo Nguyễn Minh K cũng đang điều khiển cùng chiều với chị P. Hậu quả chị P bị thương tích 69% và hư hỏng xe mô tô. Do thương tích, hư hỏng xe của chị P không do hành vi cướp giật tài sản của bị cáo gây ra, nên Viện kiểm sát không truy tố bị cáo đối với tình tiết này theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Đỗ Kim P yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 107.050.000 đồng, gồm chi phí điều trị thương tích, thiệt hại về xe mô tô, thu nhập thực tế bị mất, thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Thị Lệ Kh yêu cầu bồi thường thiệt hại do tủ bán thuốc lá bị bể. Tuy nhiên, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không cung cấp, cung cấp không đầy đủ chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình theo yêu cầu của Tòa án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa và sự vắng mặt của chị P thật sự trở ngại cho việc giải quyết phần dân sự và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự . Cho nên, Hội đồng xét xử tách giải quyết dân sự trong vụ án hình sự bằng một vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự, được quy định Điều 30, khoản 2 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, theo tinh thần Công văn số 121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 của Tòa án nhân dân tối cao. Chị P, chị Kh có quyền khởi kiện một vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.

[7] Về vật chứng vụ án: Bị cáo Nguyễn Minh K sử dụng xe mô tô mang biển số kiểm soát 54N-8222 của chị Huỳnh Phương T để thực hiện hành vi phạm tội, chị T không biết. Vì chị T không có lỗi trong vụ án này, nên giao trả lại cho chị T 01 yên xe máy, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 54N7-8222, 01 xe gắn máy, biển kiểm soát 54N7-8222 (đã qua sử dụng), theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo bị kết tội, nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[9] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện VL là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu không đồng ý, có quyền kháng cáo bản án theo theo quy định tại khoản 1, khoản 4 Điều 331 và khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh K phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Căn cứ điểm d, i khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh K 05 (Năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 30/01/2022.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 30, Điều 292 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. Tách giải quyết dân sự yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tài sản của chị Đỗ Kim P, yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản của chị Trần Thị Lệ Kh trong vụ án hình sự bằng một vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự .

3. Về vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Trả lại cho chị Huỳnh Phương T 01 yên xe máy, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 54N7-8222, 01 xe gắn máy, biển kiểm soát 54N7-8222 (đã qua sử dụng).

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 10/8/2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện VL, tỉnh Bạc Liêu).

4. Về án phí sơ thẩm:

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Minh K phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ khoản 1, khoản 4 Điều 331 và khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Án xử công khai, báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (15/9/2022). Đối với bị hại vắng mặt, thời hạn kháng cáo 15 ngày tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 29/2022/HS-ST

Số hiệu:29/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Lợi - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về