Bản án về tội cướp giật tài sản số 28/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN Ô, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 28/2024/HS-ST NGÀY 22/03/2024 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong ngày22tháng 3năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ô, thành phố Cần T xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 21/2024/HSST ngày 02tháng 02năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:25/2024/QĐXX-STngày 28 tháng02 năm 2024đối với bị cáo:

Trần Ngọc D, sinh ngày 21/9/1999,tại Bạc L. Nơi cư trú: ấp Long Đ, thị trấn Phước L1, huyện Phước L1, tỉnh Bạc L; nghề ngH1: không; trình độ học vấn: 12/12; giới tính: Nam; tôn giáo: không; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn N và bà Đặng Kim K; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo đang bị tạm giam trong vụ án khác từ ngày 27/10/2023.Có mặt

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Phạm H. Địa chỉ: Công ty Luật TNHH MTV T (Số 59 ấp Long H, thị trấn Phước L1, huyện Phước L1, tỉnh Bạc L). Vắng mặt

- Người bị hại:Chị Lâm Hoàng Thiên Th, sinh năm 1985. Địa chỉ: khu vực 4, phường Châu Văn L2, quận Ô, thành phố Cần T. Vắng mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Đặng Kim TH1, sinh năm 1960.Địa chỉ: ấp Long Đ, thị trấn Phước L1, huyện Phước L1, tỉnh Bạc L. Vắng mặt

2. Chị Phạm Hồng T, sinh năm 2003.Địa chỉ: ấp Mỹ H1 1, xã T, thành phố Vị Th, tỉnh Hậu Giang. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Ngọc D nảy sinh ý định đến các tiệm vàng, đóng giả là người mua vàng, lợi dụng lúc người bán sơ hở để chiếm đoạt rồi nhanh chóng bỏ chạy, đem tài sản bán lấy tiền sử dụng vào mục đích cá nhân. Thực hiện ý định đó, sáng ngày 19/4/2023, D một mình điều khiển xe honda Winner màu đen, biển số 60B6 – X đi từ nhà trọ tại xã Hoà A, huyện Phụng H1, tỉnh Hậu Gvề Trung tâm Cần T. Đến khoảng gần 11 giờ, D đi đến Trung tâm quận Ô thì phát hiện tiệm vàng Kim Vân Th Vân, ở tại vị trí ít người qua lại. Lúc này, D thấy chị Lâm Hoàng Thiên Th đứng một mình trong tiệm nên D đậu xe ở phía trước lộ tắt máy xe, để nguyên chìa khoá trên ổ khoá rồi đi bộ vào quầy mua bán vàng. Khi vào trong tiệm vàng, D giả vờ hỏi mua 01 chiếc lắc vàng loại 18K có trọng lượng 08 chỉ 03 phân, chị Th lấy ra cho D xem đeo thử vào tay rồi trả lại chị Th. D tiếp tục kêu chị Th lấy thêm 01 tấm lắc vàng loại 18K cùng và 01 lắc vàng loại 24K cho D xem và thử tay, xem xong D trả lại cho chị Th. Sau đó, D kêu chị Th đưa lại chiếc lắc vàng 18K ban đầu, khi chị Th đưa lắc vàng cho D thì D lấy điện thoại ra giả vờ chụp ảnh để gửi cho bạn nhằm mục đích cho chị Th mất cảnh giác. Khi thấy chị Th quay mặt đi chỗ khác, D liền bỏ chiếc lắc vào túi áo khoác rồi nhanh chóng lên xe bỏ chạy. D chạy ra đường 26/3 chạy về Trung tâm thành phố Cần T theo tuyến đường Tôn Đ Thắng - Nguyễn Văn Linh (Quốc lộ 91B) về tới Cần T. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, D một mình điều khiển xe chạy đến tiệm vàng Đông Nam ở Trung tâm thương mại Cái Khế, quận Ninh Kiều bán chiếc lắc vàng được số tiền trên 28.000.000 đồng.

Tiến hành thu giữ clip tại hiện trường thể hiện hành ảnh và biển số xe của Trần Ngọc D. Quá trình điều tra, D khai nhận chính là người trực tiếp thực hiện vụ cướp giật tài sản nêu trên phù hợp với lời khai của bị hại cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ.

Ngoài vụ cướp giật tại quận Ô, D còn khai nhận thực hiện 01 vụ cướp giật tại quận Ninh Kiều, 01 vụ tại quận Thốt Nốt, 01 vụ tại huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần T, 01 vụ tại thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long và 01 vụ tại thành phố Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang. Hiện D đang bị Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần T khởi tố và bắt tạm giam về hành vi Cướp giật tài sản.

Tại Bản kết luận định giá số 142/KL – HĐĐGTS, ngày 09/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Ô, thành phố Cần T kết luận: 01 chiếc lắc đeo tay vàng 18K, có trọng lượng 08 chỉ 03 phân, có đặc điểm các miếng vàng hình chữ nhật nối với nhau, trên chiếc lắc có khắc nổi khoảng 04 hình đầu rồng (chưa thu hồi được), giá trị tại thời điểm ngày 19/4/2023 là:

33.822.500 đồng (Bút lục: 20 – 28).

Phần dân sự, chị Lâm Hoàng Thiên Th yêu cầu Trần Ngọc D bồi thường số tiền theo kết luận định giá.

Đối với người mua vàng của D do không biết tài sản do phạm tội mà có nên không xem xét xử lý trong vụ án này. Hiện những người này cũng không yêu cầu gì về phần dân sự.

Đối với xe biển số 60B6 – X, D dùng để thực hiện hành vi cướp giật tài sản, hiện đang bị Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Cờ Đ, thành phố Cần T tạm giữ vàđã được xử lý trong Bản án hình sự số 56/2023/HS-ST ngày 27/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần T (Bản án có hiệu lực pháp luật) Đối với số tiền bán tài sản D đưa cho Phạm Hồng T (bạn gái D) 6.000.000 đồng để sinh hoạt hằng ngày; cho bà Đặng Kim TH1 (mẹ ruột D) 4.000.000 đồng; số tiền còn lại D chi tiêu cá nhân và cộng với số tiền bán tài sản của những vụ án trước để mua 01 điện thoại iphone 14 promax tặng cho T. Khi nhận tài sản T và TH1 không biết đây là tài sản do D phạm tội mà có nên không xe xét xử lý là phù hợp. Đối với điện thoại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần T đã thu giữ,đã được xử lý trong Bản án hình sự số 56/2023/HS-ST ngày 27/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đ, thành phố Cần T.

Tại Cáo trạngtruy tố số 32/CT-VKSOM ngày 01/02/2024, Viện kiểm sát nhân dân quận Ô truy tố bị cáo Trần Ngọc D ra trước Tòa án nhân dân quận Ô để đề nghị xử lý tội Cướp giật tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Về trách nhiệm dân sự bị cáo đồng ý bồi thường cho chị Lâm Hoàng Thiên Th theo yêu cầu số tiền theo kết luận định giá là 33.822.500 đồng, nên ghi nhận.

Tại phiên tòa,đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ô đã phân tích về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sựđối với bị cáo. Trên cơ sở đó, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng Điều 38, khoản 1 Điều 171, điểm b,s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự tuyên bố Trần Ngọc D phạm tội “Cướp giật tài sản”. Xử phạtbị cáo từ01 năm đến 01 năm06 thángtù.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo đồng ý bồi thường cho chị Th số tiền 33.822.500 đồng. Gia đình bị cáo đã nộp 3.000.000 đồng. Vì vậy, cần buộc bị cáo tiếp tục bồi thường cho chị Th số tiền còn lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Xét tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong vụ án được thực hiện đúng trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng hình sự quy định.

Đối với sự vắng mặt của Luật sư tham gia tại phiên tòa, bị cáo đã đồng ýxét xử vắng mặt người bào chữa, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 291 Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành xét xử theo quy định chung của pháp luật.

[2]Về căn cứ kết tội:

Hội đồng xét xử nhận thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên, tại phiên tòa bị cáo có đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại tội danh của bị cáo. Theo bị cáo, hành vi của bị cáo là phạm tội Lừa đảochiếm đoạt tài sản của người khác, vì bị cáo có hành vi gian dối, giả vờ để chiếm đoạt tài sản của bị hại. Hội đồng xét xử xét thấy, mặc dù bị cáo có ý thức chiếm đoạt tài sản trước và có thủ đoạn gian dối nhưng việc gian đối của bị cáo không nhằm chiếm đoạt tài sản mà chỉ nhằm để cho chủ sở hữu tin tưởng giao tài sản cho bị cáo để bị cáo có điều kiện nhanh chóng chiếm đoạt, nhanh chóng tẩu thoát.

Bên cạnh đó, tại phiên tòa bị cáo còn trình bày, bị cáo không có hành vi giật lấy tài sản từ bị hại, nên truy tố bị cáo tội Cướp giật tài sản là chưa đúng. Hội đồng xét xử nhận thấy, thời điểm đó, tuy bị hại có đưa tài sản cho bị cáo và bị cáo đã cầm nắm trước khi bị cáo có hành vi chiếm đoạt,nhưng mục đích của bị hại giao tài sản cho bị cáo, không phải là chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bị cáo thông qua hành vi gian dối của bị cáo, mà thực chất chỉ giao cho bị cáo để xem lựa chọn tài sản, lúc này tài sản tuy bị cáo nắm giữ nhưng vẫn đang còn trong sự quản lý của phía bị hại, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong quản lý, bị cáo nhanh chóng chiếm đoạt và nhanh chóng tẩu thoát, nên Viện kiểm sát nhân dân quận Ô truy tố bị cáo về hành vi cướp giật tài sản là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Từ nội dung vụ án và phân tích nêu trên, đã đủ cơ sở kết luận:

Vào ngày 19/4/2023, do cá nhân không có tiền tiêu xài, bị cáo đã nảy sinh ý thức chiếm đoạt tài sản của người khác, bằng các thủ đoạn như lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản, bị cáo sẽ nhanh chóng thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại, sau đó nhanh chóng tẩu thoát. Bằng thủ đoạn này, vào khoảng gần 11 giờ cùng ngày,bị cáo đến tiệm vàng Kim Vân Th Vân (trung tâm quận Ô) do chị Lâm Hoàng Thiên Th đứng ra giao dịch bán vàng,bị cáo vào giả vờ mua vàng, giả vờ trao đổi vàng, xem lựa chọn hàng, để cho chị Th mất cảnh giác. Khi thấy chị Th quay mặt đi chỗ khác,bị cáo liền bỏ chiếc lắc vàngvào túi áo khoác rồi nhanh chóng lên xe bỏ chạy.

Tại Bản kết luận định giá số 142/KL – HĐĐGTS, ngày 09/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Ô, thành phố Cần T kết luận: 01 chiếc lắc đeo tay vàng 18K, có trọng lượng 08 chỉ 03 phân, có đặc điểm các miếng vàng hình chữ nhật nối với nhau, trên chiếc lắc có khắc nổi khoảng 04 hình đầu rồng (chưa thu hồi được), giá trị tại thời điểm ngày 19/4/2023 là:

33.822.500 đồn. Hành vi của bị cáo nêu trên đã đủ yếu tố cấu thành tội Cướp giật tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự, nên Viện kiểm sát nhân dân quận Ô truy tố bị cáo trước pháp luật là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi nguy hiểm cho xã hội của bị cáo.

Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội,đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp phápcủa người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, đồng thời còn gây mất an ninh trật tự, an toàn công cộng tại địa phương. Bị cáolà người đã trưởng thành có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, bị cáo thừa hiểuchiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, thế nhưngvì động cơ tư lợi cá nhân mà bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Điều này cho thấy bị cáo coi thường pháp luật nên cần phải có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tăng nặng: không có Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình bồi thường cho bị hại một phần thiệt hại cho bị hại, bị cáo có cha là thương binh, gia đình được khen tặng danh hiệu gia đình thương binh, có mẹ là nhà giáo nhân dân có nhiều đóng góp cho sự ngH1 giáo dục, được tặng kỷ niệm chương vì sự ngH1 giáo dục và huy hiệu 30 năm tuổi đảng. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo về việc đồng ý bồi thường cho bị hại chị Th số tiền 33.822.500 đồng. Gia đình bị cáo đã nộp khắc phục được 3.000.000 đồng, bị cáo còn phải tiếp tục bồi thường cho bị hại số tiền 30.822.500 đồng [6] Về xử lý vật chứng có liên quan: Đã được xử lý trong Bản án hình sự số 56/2023/HS-ST ngày 27/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần T (Bản án có hiệu lực pháp luật), nên không đề cập xử lý.

[7]Về án phí sơ thẩm: Áp dụng Điều 23 và 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016của Ủy ban thường vụ Quốc Hộiquy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm: 200.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm: 1.541.125 đồng. Tổng cộng: 1.741.125 đồng (một triệu bảy trăm bốn mươi mốt ngàn một trăm hai mươi lăm đồng)

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1]Áp dụng:khoản 1Điều 171, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 56Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Trần Ngọc D phạm tội “Cướp giật tài sản” Xử phạt:Trần Ngọc D 01(một)năm06(sáu) thángtù. Tổng hợp hình phạt 03 năm 06 tháng tù tại Bản án hình sự số 56/2023/HS-ST ngày 27/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần T. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung tổng cộng là05 (năm) năm tù về tội cướp giật tài sản. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày 27/10/2023.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho chị Lâm Hoàng Thiên Th số tiền số tiền 33.822.500 đồng. Phía bị cáo cùng gia đình đãbồi thường cho chị Th số tiền 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) theo Biên lai thu tiền số 0001754 ngày 11 tháng 3 năm 2024 (chị Th được nhận số tiền này). Buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho chị Thsố tiền còn lại là 30.822.500 đồng (ba mươi triệu tám trăm hai mươi hai ngàn năm trăm đồng).

[2]Về án phí sơ thẩm:

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm: 200.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm: 1.541.125 đồng. Tổng cộng: 1.741.125 đồng (một triệu bảy trăm bốn mươi mốt ngàn một trăm hai mươi lăm đồng)

[3] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tòa tuyên án; kể từ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết đối với các đương sự vắng mặt tại phiên tòa để xin Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 28/2024/HS-ST

Số hiệu:28/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ô Môn - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về