Bản án về tội cướp giật tài sản số 28/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 28/2022/HS-ST NGÀY 04/05/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2022/TLST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2022/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Đức H; sinh năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký thường trú: đường A, Phường A, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Đ. H. (chết) và con bà: Đồng Thị T. sinh năm 1962; vợ, con: không có; tiền án: Bản án số 248/HSST ngày 16/9/2016 Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Bản án số 25/HSST ngày 03/4/2018 Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm 6 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 24/9/2021; tiền sự: không. Tạm giữ, tạm giam: 04/10/2021 (Có mặt)

- Bị hại: Chị Hoàng Thị H – sinh năm 1982; địa chỉ cư trú: Xã V, Huyện T, tỉnh Bình Định (Vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Đồng Thị T, sinh năm 1962, địa chỉ cư cú: đường A, Phường P, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ, ngày 04/10/2021, Trần Đức H điều khiển xe gắn máy hiệu Sirius, biển số 59V2- 762.15 một mình lưu thông trên đường Bàu Bàng, Phường 13, quận Tân Bình. Khi đến trước nhà số 27 Bàu Bàng, H nhìn thấy chị Hoàng Thị H trên tay cầm điện thoại di động đang sử dụng nên nảy sinh ý định cướp giật điện thoại di động của chị H, Trần Đức H liền điều khiển xe quay trở lại, đi ngược chiều và áp sát dùng tay trái giật điện thoại của chị Hoàng Thị H, do chị Hoàng Thị H cầm chặt nên Trần Đức H không giật được và bị té ngã. Lúc này có bảo vệ khách sạn gần đó cùng người dân phát hiện, truy đuổi bắt được Trần Đức H giao cho Công an xử lý.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Đức H đã khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên. Vật chứng vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung J5, đã trả lại cho bị hại H.T.H, bị hại nhận lại tài sản không có ý kiến yêu cầu gì. Kết luận định tài sản số 175/HĐĐGTS- TTHS, ngày 26/10/2021 của Hồi đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Tân Bình: điện thoại di động hiệu Samsung J5 màu trắng, hàng chính hãng, đã qua sử dụng, tình trạng hoạt động tốt, có giá 2.400.000 đồng.

- 01 xe gắn máy hiệu Sirius, biển số 59V2-762.15, qua xác minh chủ sở hữu là bà Đồng Thị T. (mẹ của Trần Đức H). Bà T. cho biết xe gắn máy này là của bà mua vào năm 2017 để sử dụng, cho H mượn để đi công việc, không biết việc H dùng xe máy sử dụng vào việc cướp giật tài sản, Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Tân Bình đã trả xe gắn máy cho bà T..

- Thu của Trần Đức H: 01 điện thoại di động hiệu Redmi Trung Quốc màu xanh và 01 bộ quần áo.

- Kèm theo hồ sơ vụ án: 01 đĩa ghi âm, ghi hình.

Tại bản cáo trạng số 16/CT-VKS.TB ngày 15 tháng 02 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Trần Đức H về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát tại phần luận tội đã tóm tắt lại hành vi phạm tội của bị cáo, nêu ra các nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nêu rõ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm h, s khoản 1 Điều 51, khoản 3 Điều 57, điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trần Đức H từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

Về vật chứng đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan cảnh sát điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Sau phần luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận, bào chữa mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Trần Đức H, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của bị hại, người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Đức H có hành vi điều khiển xe gắn máy đi ngược chiều và áp sát dùng tay trái giật điện thoại di động hiệu Samsung J5 trị giá 2.400.000 đồng của chị Hoàng Thị H đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất táo bạo, liều lĩnh ngang nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác ngay trên đường phố nơi đông người và dùng thủ đoạn nguy hiểm là xe gắn máy phân khối lớn là nguồn nguy hiểm cao độ làm pH.T.H tiện phạm tội, tiềm ẩn nguy cơ dễ gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại và những người đang lưu thông trên đường. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức hành vi cướp giật tài sản của người khác bị pháp luật nghiêm cấm và trừng trị nhưng chỉ vì tham lam, muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm, chứng tỏ bị cáo có thái độ xem thường pháp luật. Xét nhân thân bị cáo là xấu, vừa chấp hành xong hình phạt, có tiền án về tội rất nghiêm trọng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm mục đích giáo dục, cải tạo, giúp bị cáo từ bỏ ma tuý, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt được quy định tại Điều 15 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, để giảm nhẹ một hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51, khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về vật chứng vụ án:

- 01 áo sơ mi ngắn tay màu xanh có sọc ca rô đen ngang và 01 quần jean dài màu đen phía sau có hình logo hình mặt người có 02 sọc xéo và chữ Desingbna Seamerter Jeans đã qua sử dụng, bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu tiêu huỷ.

- 01 điện thoại di động hiệu Redmi Trung Quốc màu xanh có số imei 1: 865858059434303, số imei 2: 865858059434311 là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- 01 đĩa ghi âm, ghi hình tiếp tục lưu hồ sơ vụ án.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản không có ý kiến yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d, i khoản 2 Điều 171, điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 15, khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Căn cứ Điều 106, Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015Luật phí, lệ phí năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Trần Đức H phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt: Trần Đức H 03 (Ba) năm 09 (Chín) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”.

Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam: 04/10/2021.

[2] Tịch thu tiêu huỷ: 01 áo sơ mi ngắn tay màu xanh có sọc ca rô đen ngang và 01 quần jean dài màu đen phía sau có hình logo hình mặt người có 02 sọc xéo và chữ Desingbna Seamerter Jeans đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo Trần Đức H 01 điện thoại di động hiệu Redmi Trung Quốc màu xanh có số imei 1: 865858059434303, số imei 2: 865858059434311.

Tiếp tục lưu hồ sơ vụ án 01 đĩa ghi âm, ghi hình.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 12/PNK ngày 25/01/2022 của Đội Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an quận Tân Bình)

[3] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

[4] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hoặc ngày Tòa án tống đạt, niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

625
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 28/2022/HS-ST

Số hiệu:28/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về