Bản án về tội cướp giật tài sản số 281/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 281/2024/HS-ST NGÀY 09/08/2024 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 08 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thanh Hoá (điểm cầu trung tâm), Nhà tạm giữ Công an thành phố T, tỉnh Thanh Hoá (điểm cầu thành phần), xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 303/2024/TLST-HS ngày 16 tháng 07 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 320/2024/TLST-HS ngày 26 tháng 07 năm 2024, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Q2; sinh ngày 02 tháng 12 năm 2005; tại tỉnh Thanh Hoá; nơi cư trú: Thôn Y, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thanh Hoá; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T; con bà: Nguyễn Thị T1; Gia đình có hai chị em, bị cáo là con thứ hai; vợ, con: Chưa có; tiền án: không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 17/8/2023, Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn xử phạt 21 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 42 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”; Tạm giữ, tạm giam: Bị tạm giữ từ ngày 07/5/2024 đến ngày 10/5/2024 bị áp dụng biện pháp tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố T. Có mặt.

- Bị hại: Chị Lê Thị V, sinh năm 1991 Nơi cư trú: Số nhà D N, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt không có lý do.

- Người làm chứng: Anh Vũ Xuân C1, sinh năm 1970 Nơi cư trú: Số nhà G H, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Do không có điện thoại để sử dụng nên khoảng 17 giờ 00 phút ngày 06/5/2024, Nguyễn Văn Q2 đi dọc đường H, phường Đ, thành phố T tìm cửa hàng bán điện thoại có sơ hở để cướp. Khi đi đến cửa hàng “Tuấn V1” ở số nhà E H, quan sát thấy chủ cửa hàng là chị Lê Thị V, sinh năm 1991, ở D N, phường Đ, thành phố T đang mang thai, Q2 nghĩ chị V không có khả năng đuổi được mình nên đi vào giả vờ hỏi mua điện thoại. Chị V chào bán 01 điện thoại Iphone 11 promax thì Q2 đồng ý mua. Chị V lắp sim điện thoại vào máy sau đó đưa cho Q2 để thử máy. Lợi dụng lúc chị V quay đi, Q2 cầm chiếc điện thoại trên bỏ chạy khỏi quán. Chị V hô “Cướp” và đuổi theo, Q2 chạy được khoảng 30m, do hoảng sợ nên ném điện thoại xuống đất tiếp tục bỏ chạy thì bị nhân dân và tổ tuần tra Công an phường Đ khống chế, bắt quả tang. Tổ tuần tra đã đưa Q2 về trụ sở Công an phường Đ lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ 01 điện thoại Iphone 11 promax màu vàng.

Tại Kết luận định giá tài sản số 42/KL-HĐĐGTS ngày 08/5/2024, Hội đồng định giá tài sản UBND thành phố T kết luận 01 điện thoại Iphone 11 promax màu vàng, đã qua sử dụng có giá trị 7.800.000đ (Bảy triệu tám trăm nghìn đồng).

Về vật chứng, ngày 15/5/2024, Cơ quan CSĐT Công an thành phố T đã trả lại 01 điện thoại Iphone 11 promax màu vàng cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Lê Thị V. Chị V đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì về dân sự.

Quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập.

Tại bản cáo trạng số 232/CTr-VKS ngày 15 tháng 07 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân (sau đây viết tắt là VKSND) thành phố T, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố Nguyễn Văn Q2 về tội “cướp giật tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự (sau đây viết tắt là BLHS).

Tại phiên toà: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố, đồng ý và không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận định giá, đồng ý với toàn bộ quan điểm và không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Quá trình điều tra bị hại, người làm chứng trình bày phù hợp với lời khai của bị cáo, nội dung bản cáo trạng.

Đại diện VKSND giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 55, Điều 56, khoản 5 Điều 65 BLHS để xử phạt Nguyễn Văn Q2 mức án từ 45 tháng đến 48 tháng tù. Tổng hợp hình phạt 21 (hai mươi mốt) tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2023/HSST ngày 17/08/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt từ 5 (năm) năm 6 (sáu) tháng tù đến 5 (năm) năm 9 (chín) tháng tù.

- Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có công việc, thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Bị cáo Nguyễn Văn Q2 phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX) cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hoá, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (sau đây viết tắt là BLTTHS). Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 06/5/2024, tại cửa hàng điện thoại ‘T" ở số nhà E H, phường Đ, thành phố T, Nguyễn Văn Q2 giả vờ hỏi mua điện thoại của chị Lê Thị V, sau khi nhận được điện thoại Q2 bỏ chạy khỏi quán thì bị bắt giữ. Tài sản bị chiếm đoạt là 01 điện thoại Iphone 11 promax, trị giá 7.800.000đ.

Hành vi phạm tội nêu trên của Nguyễn Văn Q2 là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Do đó, cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

Bị cáo nhận thức được việc “cướp giật tài sản” là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Khi phạm tội bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 BLHS. Ý thức chủ quan của bị cáo là cướp giật tài sản để có điện thoại di động sử dụng nên bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo biết rõ chị V là chủ sở hữu tài sản đang mang thai nhưng vẫn phạm tội nhằm chị V không thể đuổi bắt được bị cáo.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo đã có hành vi phạm vào điểm g khoản 2 Điều 171 BLHS như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hoá là đúng.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng, có 01 tình tiết giảm nhẹ như sau: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[4] Tuy nhiên, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng đến trật tự an và an toàn xã hội tại địa phương, xâm phạm đến quyền sở hữu của chị V, bị cáo có nhân thân xấu nên cần xét xử bị cáo một mức án tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo và cần cách ly khỏi xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội, đồng thời răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam sẽ được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt.

Bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách của án treo nên theo khoản 5 điều 65 BLHS, HĐXX buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 21 (hai mươi mốt) tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2023/HSST ngày 17/08/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá, để tổng hợp hình phạt chung của cả hai bản án.

[5] Do bị cáo không có công việc, thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Các đề nghị của Đại diện viện kiểm sát là có căn cứ, nên chấp nhận.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm g khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 55, Điều 56, khoản 5 Điều 65 BLHS; Điều 331, Điều 332, Điều 333 BLTHS; Áp dụng Điều 136 BLTHS; khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Q2 phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt: Nguyễn Văn Q2 4 (bốn) năm tù.

Tổng hợp hình phạt 21 (hai mươi mốt) tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2023/HSST ngày 17/08/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 5 (năm) 9 (chín) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 07/5/2024).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Án phí: Bị cáo Nguyễn Văn Q2 phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị cáo với thời hạn 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.

Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, vắng mặt bị hại. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 281/2024/HS-ST

Số hiệu:281/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:09/08/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về