Bản án về tội cướp giật tài sản số 276/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 276/2023/HS-ST NGÀY 05/09/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

 Ngày 05 tháng 9 năm 2023 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 254/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 376/2023/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 119/2023/HSST-QĐ ngày 22/8/2023, đối với các bị cáo:

1. Bùi Văn T (tên gọi khác: Tý E), sinh năm 1997 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Số A đường L, khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương, nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 8/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: Nam; con ông Bùi Văn T1, sinh năm 1968 và bà Trần Thị H, sinh năm 1972; bị cáo có 01 anh ruột, sinh năm 1994; bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự: không - Tiền án:

+ Ngày 14/11/2019, Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An (nay là thành phố D), tỉnh Bình Dương, xử phạt 03 năm 06 tháng tù, về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 391/2019/HS-ST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/01/2022.

- Nhân thân:

+ Ngày 12/7/2016, Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An (nay là thành phố D), tỉnh Bình Dương, ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 01 năm 04 tháng. Chấp hành xong ngày 27/4/2017; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam trong một vụ án khác. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Nguyễn Tấn Đ (tên gọi khác: T2), sinh năm 1991 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: C, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Hoàng T3, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1970; có 01 chị ruột sinh năm 1988; bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự: Không;

Tiền án:

+ Ngày 24/12/2020, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, xử phạt 08 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 528/2020/HS-ST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/10/2021.

+ Ngày 13/9/2022 Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, xử phạt 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 275/2022/HS-ST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/12/2022.

- Nhân thân:

+ Ngày 14/9/2016, Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An (nay là thành phố D), tỉnh Bình Dương xử phạt 08 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 292/2016/HS-ST này 14/9/2016, bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 03/4/2023, có mặt.

- Bị hại: ông Trần Đức T4, sinh năm 1979; địa chỉ: số B khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Bùi Văn T1, sinh năm 1968 và bà Trần Thị H, sinh năm 1972; cùng địa chỉ: Số A đường L, khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Bà Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1970; địa chỉ: Số C, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 20/3/2023, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu đen biển số 75K1-260.xx đến nhà của Đ, tại đây, T rủ Đ đi cướp giật tài sản của người đi đường, Đ đồng ý. Sau đó, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu đen, biển so 75K1-260.xx chở Đ đi trên các tuyến đường thuộc địa bàn thành phố D để tìm tài sản chiếm đoạt. Khi T điều khiển xe mô tô đến đường N (cách ngã ba M C khoảng 100m) thuộc khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương, Đ ngồi sau phát hiện anh Trần Đức T4, điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SH màu đỏ biển số 61D1-868.xx, chạy ngược chiều về hướng ngã tư C, trên cổ anh T4 có đeo sợi dây chuyền màu vàng. Lúc này, Đ dùng tay vỗ vào hông T đồng thời chỉ tay về hướng anh T4 đang điều khiển xe mô tô, T hiểu ý Đ nên điều khiển xe mô tô chở Đ chạy vòng lại đuổi theo anh T4, đến trước số nhà B đường N, khu phố Đ, phường T, thành phố D, T điều khiển xe mô tô áp sát bên trái xe mô tô của anh T4, Đ ngồi sau dùng tay phải giật đứt sợi dây chuyền và cầm trên tay rồi T tăng ga chở Đ tẩu thoát, bị giật sợi dây chuyền anh T4 và xe mô tô ngã xuống đường. Sau khi tẩu thoát T điều khiển xe mô tô chở Đ đến tiệm cầm đồ “Kim Thanh T5” tại địa chỉ số A, đường H, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương bán sợi dây chuyền. Lúc này, T đứng ngoài giữ xe còn Đ đi vào trong tiệm gặp người nam bán sợi dây chuyền được số tiền 92.000.000đ (chín mươi hai triệu đồng). Sau đó T và Đ thỏa thuận T được chia 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng), Đ được chia 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) còn 2.000.000 đồng T và Đ tiêu xài chung. Hiện nay số tiền chiếm đoạt được các bị cáo đã tiêu xài cá nhân hết.

Qua điều tra anh Trần Đức T4 xác định tài sản chiếm đoạt là sợi dây chuyền vàng 18K có trọng lượng 45 chỉ mua vào thời điểm năm 2022, tại tiệm vàng “N”, địa chỉ số C đường L, khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương với số tiền 147.000.000đ (một trăm bốn mươi bảy triệu đồng). Chủ tiệm vàng “Ngọc à” là anh Đặng Văn X xác nhận anh T4 có mua sợi dây chuyền 18K có trọng lượng 45 chỉ với số tiền 147.000.000đ (một trăm bốn mươi bảy triệu đồng), do quen biết nên hai bên không làm giấy mua bán.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 52BBĐG - HĐĐGTS ngày 18/4/2023 của Hội đồng định giá thường xuyên trong tố tụng hình sự thành phố D, kết luận 01 dây chuyền 18K có trọng lượng 45 chỉ, tại thời điểm chiếm đoạt có trị giá 153.900.000đ (một trăm năm mươi ba triệu chín trăm nghìn đồng).

Vật chứng thu giữ:

+ 01 áo sơ mi tay dài, chất liệu vải màu xám - đen có chữ Diaz + 01 quần jean dài màu xanh;

+ 01 đôi dép màu đỏ - đen có chữ Osaka.

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đen, số khung RTCUG0610FY0488xx; số máy G3D4E-0538xx biển số 75K1 - 260.xx. Qua xác minh xe gắn biển số giả, không xác định được chủ sở hữu.

Tại cáo trạng số 236/CT-VKS-DA ngày 21 tháng 7 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Bùi Văn T về tội Cướp giật tài sản theo điểm c, d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự, truy tố bị cáo Nguyễn Tấn Đ về tội Cướp giật tài sản theo điểm c, d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c, d, i khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo Bùi Văn T từ 06 (sáu) năm đến 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng, áp dụng c, d, i khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Đ từ 05 (năm) 06 (sáu) tháng tù.

*Về xử lý vật chứng:

+ 01 (một) áo sơ mi tay dài, chất liệu vải màu xám - đen có chữ DiaZ, 01 (một) quần jean dài màu xanh, 01 (một) đôi dép màu đỏ - đen có chữ Osaka, biển số 75K1 - 260.xx không còn giá trị sử dụng, đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy.

+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đen, số khung RTCUG0610FY0488xx; số máy G3D4E-0538xx là phương tiện các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, đề nghị tuyên tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

+ Đối với Mai Văn K và Phạm Văn M, kinh doanh tại tiệm cầm đồ “ Kim Thanh T5 ” địa chỉ số A, đường H, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương, qua làm việc anh K và anh M không xác định được vào ngày 20/3/2023 có mua sợi dây chuyền vàng của Đ đem bán hay không vì lượng khách đông nên không nhớ, do đó không có cơ sở để thu hồi vật chứng và xử lý theo quy định.

* Về trách nhiệm dân sự: Anh Trần Đức T4 yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 80.000.000đ (tám mươi triệu đồng). Gia đình các bị cáo đã bồi thường được số tiền 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng), mỗi bị cáo bồi thường 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng), tại phiên tòa bị cáo đồng ý thanh toán số tiền còn lại. Đây là sự tự nguyện của các đương sự nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.

- Đối với thương tích của bị hại T4 do các bị cáo T và Đ gây ra trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, bị hại không có yêu cầu xử lý cũng như bồi thường thiệt hại.

Tại phiên tòa bị cáo Đ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà P, không tranh luận;

Bị cáo Đ nói lời nói sau cùng: bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Bị hại Trần Đức T4 và bị cáo Bùi Văn T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt và vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ Điều 290, 292 Bộ luật tố tụng Hình sự Tòa án xét xử vắng mặt bị cáo T và bị hại T4.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Đ tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo, bị hại tại Cơ quan điều tra và cũng phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án như Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú, Biên bản xác định nơi xảy ra vụ việc, Kết luận định giá tài sản số 52BBĐG - HĐĐGTS ngày 18/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản thành phố D. Như vậy, hành vi bị cáo Bùi Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu đen, biển số 75K1 -260.xx áp sát vào xe mô tô do anh T4 điều khiển đang lưu thông trên đường để cho bị cáo Nguyễn Tấn Đ dùng tay phải giật đứt sợ dây chuyền có giá trị 153.900.000đ (một trăm năm mươi ba triệu chín trăm nghìn đồng) trên cổ anh T4 rồi nhanh chóng tăng ga xe mô tô tẩu thoát đã phạm vào tội Cướp giật tài sản theo quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự. Năm 2019, bị cáo Bùi Văn T đã bị kết án 03 năm 06 tháng tù về tội Cướp giật tài sản là tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 263/CT-VKS-DA ngày 21 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, hành vi của bị cáo Đ dùng tay giật dây chuyền trên cổ làm người và xe mô tô của anh T4 ngã xuống đường rồi bị cáo T tăng ga tẩu thoát là rất nguy hiểm xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của bị hại được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Năm 2022, bị cáo Nguyễn Tấn Đ bị xử phạt về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích lại phạm tội mới nên thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo đã tích cực tác động đến gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại và bị hại xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điềm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

[6] Vụ án này có tính chất đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, bị cáo T là người rủ và chở bị cáo Đ đi tìm người để cướp giật tài sản, bị cáo Đ là người thực hành giật tài sản của bị hại.

[7] Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân xấu.

[8] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 (một) áo sơ mi tay dài, chất liệu vải màu xám - đen có chữ DiaZ, 01 (một) quần jean dài màu xanh, 01 (một) đôi dép màu đỏ - đen có chữ Osaka, biển số 75K1 - 260.xx không còn giá trị sử dụng nên tuyên tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đen, số khung RTCUG0610FY0488xx; số máy G3D4E -0538xx là phương tiện các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã đăng tin lên phương tiện thông tin đại chúng để tìm chủ sở hữu nhưng đến nay không có người đến nhận nên tuyên tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước + Đối với Mai Văn K và Phạm Văn M, kinh doanh tại tiệm cầm đồ “Kim Thanh T5” địa chỉ số A, đường H, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương, qua làm việc anh K và anh M không xác định được vào ngày 20/3/2023 có mua sợi dây chuyền vàng của Đ đem bán hay không vì lượng khách đông nên không nhớ, do đó không có cơ sở để thu hồi vật chứng và xử lý theo quy định.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình các bị cáo thỏa thuận bồi thường số tiền 80.000.000đ (tám mươi triệu đồng - mỗi bị cáo bồi thường 40.000.000đ - bốn mươi triệu đồng), bị hại đồng ý với số tiền bồi thường này và gia đình các bị cáo đã bồi thường được số tiền 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng - mỗi bị cáo 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng), số tiền còn lại các bị cáo và bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại. Đây là sự tự nguyện của các đương sự nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[10] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An về mức hình phạt đối với bị cáo Đ là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Mức hình phạt đề nghị đối với bị cáo T là chưa nghiêm khắc như đã phân tích tại mục [2] [3] nên Hội đồng xét xử sẽ xử phạt mức cao hơn đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo T.

[11] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo Bùi Văn T và Nguyễn Tấn Đ phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn T và Nguyễn Tấn Đ phạm tội Cướp giật tài sản.

1.1. Áp dụng điểm c, d, i khoản 2 Điều 171, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn T 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

1.2. Áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 171, điềm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Đ 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/4/2023.

2. Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) áo sơ mi tay dài, chất liệu vải màu xám - đen có chữ DiaZ, 01 (một) quần jean dài màu xanh, 01 (một) đôi dép màu đỏ - đen có chữ Osaka và 01 (một) biển số 75K1 - 260.xx.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đen, số khung RLCUG0610FY0488xx; số máy G3D4E - 0538xx.

(Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25/7/2023) - Buộc bị cáo Bùi Văn T và bị cáo Nguyễn Tấn Đ bồi thường cho anh Trần Đức T4 số tiền 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng - mỗi bị cáo bồi thường 20.000.000đ - hai mươi triệu đồng).

Kể từ ngày ông Trần Đức T4 có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo Bùi Văn T và bị cáo Nguyễn Tấn Đ chậm thi hành số tiền trên thì hàng tháng bị cáo T và bị cáo Đ còn phải trả cho anh T4 số tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Bùi Văn T và bị cáo Nguyễn Tấn Đ, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.000.000đ (một triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 276/2023/HS-ST

Số hiệu:276/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về