Bản án về tội cướp giật tài sản số 275/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 275/2020/HS-ST NGÀY 19/11/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 392/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 330/2020/HSST-QĐ ngày 06 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Hoàng L; sinh năm: 1988; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Lô A, đường B, Khu tái định cư Ph, phường P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; chỗ ở: Hẻm A đường L, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; văn hóa: 8/12; nghề nghiệp: Không; con ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1958 và bà Hoàng Thị Kim C, sinh năm 1964; có vợ tên Vũ Bảo Quỳnh N và có 02 con (con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2018); tiền án, tiền sự:

Không; nhân thân: Ngày 28/9/2010, bị Tòa án nhân dân huyện Khánh Vĩnh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt ngày 31/8/2011; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/3/2020 cho đến nay; có mặt.

* Bị hại:

1. Ông Nguyễn Văn Kh; sinh năm 1968 Địa chỉ: Thôn X, xã V, Tp. N, tỉnh Khánh Hòa.

2. Bà Nguyễn Thị Mỹ L; sinh năm 1994 HKTT: Số 2 đường T, phường P, thành phố N, Khánh Hòa.

Chỗ ở: Số 4 đường G, xã V, thành phố N, Khánh Hòa.

* Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Vũ T; sinh năm 1989 Địa chỉ: Thôn P, xã Đ, Tp. N, tỉnh Khánh Hòa.

2. Ông Dương Minh S; sinh năm 1994 Địa chỉ: Số 168/2 đường T, phường P, thành phố N, Khánh Hòa.

(Tất cả người bị hại và người làm chứng đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 13/3/2020, Nguyễn Hoàng L điều khiển xe máy, biển kiểm soát 79H2-xxxxx đi loanh quanh trên các tuyến đường của thành phố N, mục đích tìm ai để tài sản sơ hở thì cướp giật. Khi đi đến trước Nhà thờ hội thánh Tin Lành, tại số 43 đường C, phường P, thành phố N, L phát hiện anh Nguyễn Văn Kh (sinh năm: 1968, trú tại: Thôn X, xã V, thành phố N) ngồi tại ghế tài xế của xe taxi, biển kiểm soát 51F-xxxxx, trên tay đang sử dụng điện thoại di động hiệu Asus Zenphone Max Pro M2 nên nảy sinh ý định cướp giật chiếc điện thoại này. L điều khiển xe máy chạy vòng lại theo hướng từ đường Lê Hồng Phong vào đường Trần Nhật Duật, áp sát vào xe taxi ngay vị trí anh Kh ngồi, bất ngờ dùng tay phải giật điện thoại di động của anh Kh, nhưng do L không giữ chặt nên chiếc điện thoại di động bị rơi ra, văng xuống đường, L liền tăng ga xe máy bỏ chạy. Khi bị giật điện thoại di động, anh Kh liền mở cửa xe tri hô và chạy đuổi theo. Nguyễn Hoàng L điều khiển xe máy chạy được một đoạn đường thì không làm chủ được tay lái nên tự ngã xuống đường. L bỏ lại xe máy, tiếp tục chạy bộ thêm khoảng 05 mét nữa thì bị anh Kh cùng người dân khống chế, bắt giữ và bàn giao L cho Công an phường P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 97/HĐĐG ngày 19/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Uỷ ban nhân dân thành phố N kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Asus Zenphone Max Pro M2 có giá trị: 2.500.000 đồng.

Nguyễn Hoàng L còn khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội khác, cụ thể như sau: Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 10/3/2020, L điều khiển xe máy biển kiểm soát 79H2-xxxxx đi loanh quanh khu vực thành phố N, tìm ai để tài sản cơ hở thì cướp giật. Khi đi đến khu vực ngã ba đường Ng và đường H, phường T, thành phố N, L phát hiện chị Nguyễn Thị Mỹ L (sinh năm: 1994, trú tại: số 2 đường T, phường S, thành phố N) đang điều khiển xe máy dừng lại lề đường và trên tay đang cầm 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 8 để nghe gọi. Thấy vậy, L điều khiển xe đi từ phía sau, áp sát chị L, bất ngờ dùng tay phải giật được điện thoại di động của chị L rồi bỏ chạy đến đường C, phường Ng, thành phố N. Tại đây, L bán chiếc điện thoại này cho một thanh niên (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) với giá 3.000.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 336/HĐĐG ngày 21/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân thành phố N kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 8 có giá trị: 6.035.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 302/CT-VKSNT, ngày 22/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố N đã truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng L về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tranh luận tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng L từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù, về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 14/3/2020.

- Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại Nguyễn Thị Mỹ L số tiền 6.035.000 đồng và tách ra để giải quyết sau theo thủ tục tố tụng dân sự khi có đơn yêu cầu về trách nhiệm dân sự của người bị hại Nguyễn Văn Khương.

- Về xử lý vật chứng: 01 điện thoại di động Nokia màu đen thu giữ của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo. Đối với xe máy biển kiểm soát 79H2-xxxxx, bị cáo sử dụng làm công cụ, phương tiện phạm tội. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa xác định được chủ sở hữu của chiếc xe này. Vì vậy đề nghị giao lại cho Cơ quan điều tra Công an thành phố N để tiếp tục xác minh, điều tra và xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hoàng L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung truy tố của bản cáo trạng. Bị cáo không tranh luận, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố N và Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đúng trình tự, thủ tục và đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Người bị hại Nguyễn Thị Mỹ L có đơn xin xét xử vắng mặt; người bị hại Nguyễn Văn Kh và những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa không có lí do. Xét thấy việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án, căn cứ các điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[3] Về trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo L đã khai nhận toàn bộ hành vi cướp giật tài sản gồm: 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 8 của chị Nguyễn Thị Mỹ L vào ngày 10/3/2020 tại ngã ba đường ba đường Ng và đường H, phường T, thành phố N; và 01 điện thoại di động hiệu Asus Zenphone Max Pro M2 của anh Nguyễn Văn Kh tại khu vực trước nhà thờ Hội thánh tin lành (số 43 đường C, phường P, thành phố N). Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Xét thấy, bị cáo đã sử dụng xe máy để làm phương tiện thực hiện hành vi cướp giật tài sản của người bị hại nên thuộc trường hợp “dùng thủ đoạn nguy hiểm” theo quy định tại tiểu mục 5.3 Mục 5 phần I Thông tư số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BCA-BTP ngày 25/12/2001. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự 2015 là có căn cứ.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại mà còn có khả năng gây ra thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản cho những người tham gia giao thông khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo hai lần thực hiện hành vi phạm tội nên bị áp dụng tình tiết tăng ngặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội hai lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhân xấu (Ngày 28/9/2010, bị Tòa án nhân dân huyện Khánh Vĩnh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt ngày 31/8/2011). Vì vậy phải xử phạt bị cáo mức hình phạt thật nghiêm khắc, tương xứng với mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, cải tạo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; cha bị cáo là thương binh loại A nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Nguyễn Văn Kh vắng mặt tại phiên tòa, không có đơn yêu cầu về trách nhiệm dân sự, nên tách ra để giải quyết thành vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.

Người bị hại Nguyễn Thị Mỹ L có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa và trình bày yêu cầu bị cáo phải bồi thường 6.035.000 đồng. Đây là thiệt hại thực tế của chị L do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, mức yêu cầu bồi thường của chị L phù hợp với kết luận định giá tài sản số 336/HĐĐG ngày 21/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự. Vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu bồi thường thiệt hại của người bị hại Nguyễn Thị Mỹ L.

[6] Về vật chứng vụ án:

Đối với 01 điện thoại di động Nokia màu đen thu giữ của bị cáo, đây là tài sản của bị cáo và không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 xe máy hiệu HABICH, biển kiểm soát 79H2-xxxxx, số khung: ND81001565, số máy: FMGH001565 mà bị cáo sử dụng làm công cụ, phương tiện phạm tội. Xét chưa đủ căn cứ xác định đây là tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng hợp pháp của bị cáo. Hiện vẫn chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe này. Vì vậy cần giao lại cho Cơ quan điều tra Công an thành phố N để tiếp tục xác minh, điều tra, tìm kiếm chủ sở hữu và xử lý theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng L 04 (bốn) năm tù, về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 14/3/2020.

2. Về trách nhiệm dân sự:

- Áp dụng các Điều 584, 585, 587 của Bộ luật dân sự 2015;

Buộc bị cáo Nguyễn Hoàng L phải bồi thường cho chị Nguyễn Thị Mỹ L số tiền 6.035.000 đồng (Sáu triệu không trăm ba lăm ngàn đồng).

- Áp dụng Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Tách ra để giải quyết sau theo thủ tục tố tụng dân sự khi có đơn yêu cầu về trách nhiệm dân sự của người bị hại Nguyễn Văn Kh.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hoàng L 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen - Giao lại 01 xe máy hiệu hiệu HABICH, biển kiểm soát 79H2-xxxxx, số khung: ND81001565, số máy: FMGH001565, số loại 100, cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N để tiếp tục điều tra, xác minh, xác định chủ sở hữu và xử lý theo quy định của pháp luật.

Theo Quyết định chuyển vật chứng số 176/QĐ-VKSNT, ngày 22/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/11/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N và Chi cục thi hành án dân sự thành phố N.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí và lệ phí tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Hoàng L phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 301.700đ (ba trăm lẻ một ngàn bảy trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 275/2020/HS-ST

Số hiệu:275/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về