Bản án về tội cướp giật tài sản số 27/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 22/08/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 25/2022/TLST-HS ngày 18 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 7 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. PHAN DƯƠNG B (tên gọi khác: B), sinh năm 1996; tại: Bạc Liêu; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không. Nơi cư trú: Ấp G, xã H, huyện A, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; con ông Phan Văn I (sinh năm 1967) và bà Dương Thúy K (sinh năm 1970); B, chị, em ruột: 03 người (lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất là bị cáo); tiền án, tiền sự: Không có; Nhân thân: Ngày 31/8/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 89/2015/HS-ST, chấp hành xong hình phạt vào ngày 17/12/2016; Bị cáo đang thi hành án phạt 03 năm 06 tháng tù (thời hạn tù tính từ ngày bị bắt là ngày 26/01/2021) về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2021/HS-ST ngày 29/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện I Bình, tỉnh Bạc Liêu “có mặt”.

2. TRỊNH KHÁNH C, sinh năm 1996; tại: Bạc Liêu; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không. Nơi cư trú: Ấp G, xã H, huyện A, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): Không biết chữ; con ông Trịnh Vũ M (sinh năm 1950) và bà Nguyễn Thị N (sinh năm 1964); B, chị, em ruột: 05 người (lớn nhất sinh năm 1991, nhỏ nhất sinh năm 2008); tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo đang thi hành án phạt 03 năm 03 tháng tù (thời hạn tù tính từ ngày bị bắt là ngày 26/01/2021) về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2021/HS-ST ngày 29/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện I, tỉnh Bạc Liêu “có mặt”.

- Bị hại: Bà Châu Thị D, sinh năm 1975 Nơi cư trú: Ấp 1, xã O, thị xã P, tỉnh Hậu Giang “có đơn xin vắng mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Mai Thị Mộng E, sinh năm 2003 Nơi cư trú: Ấp 1, xã O, thị xã P, tỉnh Hậu Giang “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 13 giờ, ngày 31 tháng 12 năm 2020, Phan Dương B điều khiển xe môtô, loại Wave, biển kiểm soát 94K1 – xxxxx của Phan Dương B đến nhà Trịnh Khánh C thuộc ấp G, xã H, huyện A, tỉnh Bạc Liêu rủ Trịnh Khánh C đi “ăn chuối”, nghĩa là đi cướp giật tài sản và Trịnh Khánh C đồng ý. Phan Dương B chở Trịnh Khánh C đi theo hướng Sóc Trăng, khi đến khu vực Tượng đài Ngã Năm thuộc phường 7, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu thì phát hiện bà Châu Thị D (sinh năm 1975) đang điều khiển xe môtô, loại Wave, biển kiểm soát 95D1 – xxxxx chở con ruột là chị Mai Thị Mộng E (sinh năm 2003), cùng cư trú tại ấp 1, xã O, thị xã P, tỉnh Hậu Giang và chị Mai Thị Mộng E có đeo bên tay trái một túi xách của bà Châu Thị D. Phan Dương B kêu Trịnh Khánh C giật túi xách, nhưng Trịnh Khánh C không dám. Sau đó, Phan Dương B và Trịnh Khánh C hoán đổi vị trí cho nhau (Trịnh Khánh C điều khiển xe và Phan Dương B ngồi sau) và tiếp tục đi theo xe của bà Châu Thị D và chị Mai Thị Mộng E. Khi đến đoạn đường thuộc ấp Trà Ban 2, xã Châu Hưng A, huyện A, tỉnh Bạc Liêu, Trịnh Khánh C điều khiển xe vượt lên và áp sát phía bên trái xe của bà Châu Thị D, Phan Dương B dùng tay phải giật túi xách chị Mai Thị Mộng E đang đeo bên tay trái và nhB chóng tẩu thoát. Sau khi Phan Dương B giật được túi xách, Trịnh Khánh C điều khiển xe theo hướng Sóc Trăng được một đoạn thì quay lại về hướng Bạc Liêu, đến đầu lộ Châu Thới thì rẽ phải vào hướng Đền thờ Bác, chạy tiếp một đoạn thì cả hai dừng xe lại, kiểm tra tài sản vừa giật được là 01 cái túi xách bằng da, màu tối, kích thước khoảng 50cm x 25cm, bên trong túi có 01 điện thoại hiệu Iphone 6, màu vàng đồng và một số giấy tờ của bà Châu Thị D. Trịnh Khánh C và Phan Dương B vứt bỏ túi xách, mang điện thoại hiệu Iphone 6 đến cửa hàng điện thoại “L” thuộc khóm 10, phường 1, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu bán được số tiền 500.000 đồng, chia mỗi người 250.000 đồng để tiêu xài cá nhân.

Tại Công văn số 17/HĐĐG ngày 16 tháng 9 năm 2021 và Công văn số 19/HĐĐG ngày 29 tháng 12 năm 2021, Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện A, tỉnh Bạc Liêu từ chối định giá tài sản đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 và 01 túi xách bằng da của bà Châu Thị D bị cướp giật vào ngày 31 tháng 12 năm 2020 theo yêu cầu của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A, với lý do không đầy đủ thông tin có liên quan đến tài sản cần định giá, không còn tài sản và các chứng từ, giấy tờ có liên quan đến tài sản.

Tại Cáo trạng số 25/CT-VKS-HS ngày 15 tháng 7 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A, tỉnh Bạc Liêu đã truy tố các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C về tội: “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C theo như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị: Tuyên bố các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C phạm tội: “Cướp giật tài sản”. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phan Dương B từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù. Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, tổng hợp hình phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2021/HS-ST ngày 29 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện I Bình, tỉnh Bạc Liêu, buộc bị cáo Phan Dương B phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt được tính kể từ ngày 26 tháng 01 năm 2021. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trịnh Khánh C từ 03 năm 03 tháng đến 03 năm 09 tháng tù. Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, tổng hợp hình phạt 03 năm 03 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2022/HS-ST ngày 29 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện I Bình, tỉnh Bạc Liêu, buộc bị cáo Trịnh Khánh C phải chấp hành hình phạt từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt được tính kể từ ngày 26 tháng 01 năm 2021. Về trách nhiệm dân sự, bị hại Châu Thị D và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Mai Thị Mộng E không có yêu cầu nên không đề cập xử lý. Về xử lý vật chứng, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện A, tỉnh Bạc Liêu đã xử lý xong nên không đặt ra xem xét. Buộc các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố và không có ý kiến tranh luận với Bản luận tội của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện A, tỉnh Bạc Liêu. Các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt khi nói lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện A, Viện kiểm sát nhân dân huyện A, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện theo quy định pháp luật về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều không có ý kiến, khiếu nại hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Xuất phát từ ý thức xem thường pháp luật, động cơ tư lợi bất chính, vào khoảng 14 giờ, ngày 31 tháng 12 năm 2020, tại khu vực ấp Trà Ban 2, xã Châu Hưng A, huyện A, tỉnh Bạc Liêu, các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C đã sử dụng xe môtô biển kiểm soát 94K1 – xxxxx áp sát xe môtô biển kiểm soát 95D1 – xxxxx do bà Châu Thị D điều khiển chở con ruột là chị Mai Thị Mộng E ngồi phía sau đang lưu thông trên đường và nhB chóng giật lấy 01 (một) túi xách bên trong có 01 (một) điện thoại di động Iphone 6 cùng các giấy tờ thuộc sở hữu của bà Châu Thị D. Sau khi cướp giật được các tài sản trên, các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C đem điện thoại di động Iphone 6 đến cửa hàng điện thoại “L” thuộc khóm 10, phường 1, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu bán được số tiền 500.000 đồng, mỗi bị cáo chia nhau 250.000 đồng để tiêu xài cá nhân.

[3] Hành vi nêu trên của các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản”, theo quy định tại Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ, sung năm 2017. Các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C thực hiện hành vi phạm tội là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Đồng thời, các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C có hành vi sử dụng xe môtô, là nguồn nguy hiểm cao độ, áp sát và giật túi xách do chị Mai Thị Mộng E đang đeo trên tay trái và ngồi sau xe môtô do bà Châu Thị D điều khiển đang lưu thông trên đường, là rất nguy hiểm, có khả năng gây tổn hại tính mạng, sức khỏe cho người khác rất cao nên hành vi của các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C, là thuộc trường hợp “dùng thủ đoạn nguy hiểm” nên các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cướp giật tài sản” với tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “dùng thủ đoạn nguy hiểm” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Hội đồng xét xử kết luận các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C phạm tội “Cướp giật tài sản”, theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như Cáo trạng số 25/CT-VKS ngày 15 tháng 7 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện A, tỉnh Bạc Liêu đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[5] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C là rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây tác động xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương. Vì thế, Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C thật nghiêm khắc, cách ly các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C với đời sống xã hội một thời gian dài mới đủ răn đe, cải tạo, giáo dục các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C cũng như phát huy tác dụng phòng ngừa chung trong xã hội. Xét vai trò, mức độ phạm tội của các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C, thấy rằng các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C phạm tội mang tính chất đồng phạm giản đơn; trong đó, bị cáo Phan Dương B là người giữ vai trò chính, tích cực, vừa là người khởi xướng, rủ rê và cũng là người trực tiếp thực hiện hành vi cướp giật tài sản, còn bị cáo Trịnh Khánh C là người vừa giữ vai trò giúp sức tích cực, vừa là người thực hành, điều khiển xe môtô áp sát bị hại để bị cáo Phan Dương B thuận lợi cướp giật tài sản của bị hại. Mặt khác, bị cáo Phan Dương B đã từng bị bắt đi chấp hành án với mức án 02 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 89/2015/HS-ST ngày 31/8/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu; mặc dù, đến nay bị cáo Phan Dương B đã được xóa án tích, sau khi chấp hành án xong, về lại địa phương, lẽ ra bị cáo Phan Dương B phải lấy đó làm bài học rèn luyện bản thân, sống tuân thủ pháp luật, nhưng bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội; điều này cho thấy, ý thức chấp hành pháp luật rất kém của bị cáo Phan Dương B. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo Phan Dương B cao hơn mức hình phạt đối với bị cáo Trịnh Khánh C mới tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của từng bị cáo và đảm bảo nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đối với từng bị cáo. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết thuộc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của Kiểm sát viên, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên để giảm nhẹ một phần hình phạt khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Châu Thị D và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Mai Thị Mộng E không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên không đặt ra xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện A đã giao trả cho chủ sở hữu là bà Châu Thị D 01 (một) giấy chứng nhận C ký xe môtô biển kiểm soát 95D1 – xxxxx và 01 (một) giấy bảo hiểm tự nguyện của xe môtô biển kiểm soát 95D1 – xxxxx; xét việc giao trả tài liệu, đồ vật nêu trên là có căn cứ nên không đặt ra xử lý. Đối với xe môtô biển kiểm soát 94K1 – xxxxx, các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C dùng làm phương tiện đi cướp giật tài sản, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2021/HS-ST ngày 29 tháng 10 năm 2021, Tòa án nhân dân huyện I Bình, tỉnh Bạc Liêu đã tuyên tịch thu, bán đấu giá nộp Ngân sách nhà nước nên không đề cập xử lý.

[8] Về án phí: Buộc các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[9] Các ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A, tỉnh Bạc Liêu tại phiên tòa, như đã phân tích, có căn cứ nên được chấp nhận.

[10] Trong quá trình điều tra, các bị cáo Phan Dương B và Trịnh Khánh C còn khai nhận: Vào khoảng giữa tháng 01 năm 2021 (không nhớ rõ ngày cụ thể), Trịnh Khánh C điều khiển xe môtô biển kiểm soát 94K1 – xxxxx chở Phan Dương B đi từ ấp G, xã H, huyện A, tỉnh Bạc Liêu về hướng Quốc lộ 1A tìm tài sản để cướp giật. Khi đến đoạn đường thuộc ấp Tân Tạo, thị trấn Châu Hưng, huyện A, tỉnh Bạc Liêu, phát hiện một người phụ nữ đang điều khiển xe đạp điện, phía trước rỗ xe có để một chiếc túi xách, Trịnh Khánh C điều khiển xe tăng ga, áp sát chiếc xe đạp điện và Phan Dương B dùng tay giật lấy túi xách. Sau khi giật được túi xách, Trịnh Khánh C điều khiển xe chở Phan Dương B chạy vào Khu Công nghiệp Trà Kha, rẽ đường phía sau cơ sở bao bì và dừng xe lại, kiểm tra bên trong túi xách vừa giật được có số tiền 4.000.000 đồng, mỗi người chia nhau số tiền 2.000.000 đồng và vứt bỏ túi xách. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện A đã tiến hành điều tra, xác minh nội dung trên, nhưng vẫn chưa xác định được bị hại, chưa đủ cơ sở xử lý. Đến nay, thời hạn điều tra vụ án đã hết, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện A đã ban hành Quyết định tách hành vi nêu trên để xử lý sau là có căn cứ.

[11] Đối với B Lý Bá Nam, chủ cửa hàng điện thoại L, qua làm việc, B Lý Bá Nam không nhớ có thu mua điện thoại của Phan Dương B và Trịnh Khánh C hay không do hàng ngày cửa hàng có rất nhiều khách hàng đến mua, bán điện thoại; đồng thời, Phan Dương B và Trịnh Khánh C cũng khai nhận khi bán điện thoại tại cửa hàng điện thoại L thì không có nói điện thoại do cướp giật được mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện A không xử lý là có căn cứ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Phan Dương B (B) và Trịnh Khánh C phạm tội: “Cướp giật tài sản”.

2. Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, khoản 1 Điều 56, Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phan Dương B (B) 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2021/HS-ST ngày 29 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện I Bình, tỉnh Bạc Liêu. Buộc bị cáo Phan Dương B (B) phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính kể từ ngày 26 tháng 01 năm 2021.

Xử phạt bị cáo Trịnh Khánh C 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2021/HS-ST ngày 29 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện I Bình, tỉnh Bạc Liêu. Buộc bị cáo Trịnh Khánh C phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính kể từ ngày 26 tháng 01 năm 2021.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc các bị cáo Phan Dương B (B) và Trịnh Khánh C, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

67
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 27/2022/HS-ST

Số hiệu:27/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về